HỒ BIỂU CHÁNH
.
COM

TIỂU THUYẾT

 
Ðại nghĩa diệt thân
Chương 10

Hôm nay trời mưa dầm dề, cỏ cây mát mẻ. Dân tâm trong vùng Bến Tranh tuy bớt xao xiến song vẫn còn lơ lững giữa hoàn cảnh chiến bất chiến, bất hòa.

Nhưng chén cơm là vật cần yếu của sanh mạng, bởi vậy người ta phải xông lướt hiểm nguy mà ra đồng cày cấy để kiếm hột lúa mà nuôi sống.

Bữa nay người ta cấy tới đám ruộng của bà Nhiêu, nên hồi tảng sáng Thị Ðậu với Thị Trâm đã ra ruộng hiệp với mấy chị em trong xóm tựu lại cấy trả công đặng lo cấy một bữa cho rồi, kẻo dây dưa úa mạ.

Ông Nhiêu với bà Nhiêu ở nhà. Ông ngồi ngó ra sân, thấy đám mưa đêm làm cho sân ướt át, bẩy lầy không thể đi ra ngoài được. Bà Nhiêu bưng bình trà với cái chén để trước mặt ông mà mời ông uống cho ấm. Chú Tư Ðịnh ở nhà chú đi lại, hai tay chú níu hai ống quần lên cao cho khỏi lắm bùn, rồi khi vô sân chú lựa mấy chỗ khô ráo mà bước.

Bà Nhiêu thấy chú bước vô cửa thì bà lấy thêm một cái chén nữa và mời chú ngồi uống trà với Ông Nhiêu.

Tư Ðịnh vừa ngồi thì nói:

- Trưa hôm qua tôi đi ra chợ Mỹ mua chai[1] về trét ghe. Tôi mắc một đám mưa lớn quá sá, lại mưa dai nũa. Phải đợi tới chiều tối, phải dịu bớt tôi mới rán chèo ghe mà về. Gần hết canh một tôi mới tới nhà. Trời cứ mưa lâm râm, phần tôi chắc bên nầy ông bà đã nghỉ rồi nên tôi tính trời sáng mới qua nói chuyện.

Ông Nhiêu châu mày hỏi:

- Chú ra ngoài Mỹ có nghe tin tức quan hệ lắm hay sao?

- Tôi có gặp chú Hai Ðạt.

- A! Nó làm việc gì ngoài Mỹ nó theo Tây rồi phải hôn?

- Chú gặp tôi chú nừng quá. Chú mời tôi về nhà chú. Kế trời ụp mưa nên tôi mắc kẹt ở đó. Chú không cho về cứ theo cầm ở ăn cơm với chú đến gần tối tôi mới rứt mà về được.

- Mà thằng Ðạt, làm việc gì ngoài đó chớ? Chú nói phứt cho tôi nghe. Phải nó làm việc với Tây hay không?

- Phải, chú làm Cai.

- Cai gì?

- Cai mã tà… Cai đội đó …

- A, a! Cai Mã tà! Tốt dữ! Sang trọng dữ!

- Tội nghiệp chú nói chuyện của chú cho tôi hay mà chú khóc. Chú nói chú biết ra đầu giặc đặng lãnh lương lãnh chức cha mẹ chú không bằng lòng. Ngặt nếu chú từ chối không chịu làm thì chúng nói chú nghịch rồi bắt mà bắn chết hoặc đài ra Côn Nôn Ðại Hải, hoặc bỏ tù rụt xương. Ấy vậy chú phải chịu đặng ẩn núp cho qua hồi khó khăn. May nhờ có em gái của ông Ðội Tồn thương chú năn nỉ với ông Ðội lập thế cứu giùm mạng chú nên khỏi bị hại, mà vô lính Mã tà lại được làm Cai liền.

- Nó kiếm chuyện nói dóc với chú. Hôm nó về cho tin cụ Thủ Khoa, nói chuyện với tôi thì tôi đã biết nó sanh tâm phản quốc rồi. Lên Sài Gòn về tôi hay ở nhà nó đã đi mất thì tôi chắc nó đã đi đầu giặc chớ đi đâu. Tôi không thèm nói đến nó nữa. Tôi có nói trước cho nó biết nếu nó yểm cựu nghinh tân, quên cả giống nòi đất nước mà phụ tá với giặc thì tình cha con sẽ dứt, nó không được về nhà nầy, không được xưng là con của tôi nữa. Vậy nó cãi lời tôi ra lãnh chức Cai Mã tà thì nó làm gì nó làm, tôi không kể nó là con nữa.

- Có phải một mình chú Ðạt vô làm lính Mã tà đâu mà ông giận. Tôi thấy có người mình bộn bộn ở ngoải.

Bà Nhiêu chận hỏi:

- Trong vùng mình đây có ai đi lính Mã tà như nó vậy không?

- Có chớ. Trong làng mình có hai đứa. Hôm qua chú Hai Ðạt có kêu lại đặng thăm tôi.

- Con của ai vậy?

- Thằng Bồi con của Sáu Dụng với thằng Hớn con Bảy Khá ở xóm dưới.

- Vậy mà hôm kêu nhổ mạ, hai đứa đó sợ Tây ruồng bắt nên trốn đi xa chưa dám về.

- Hai đứa bận đồ lính lại nói chuyện với tôi tại nhà Hai Ðạt. Hai đứa đều nói bị Tây bắt, may nhờ chú Hai Ðạt xin giùm và bảo lãnh nên Tây mới chịu tha và cho làm lính. Có năm sáu đứa trai trong Bình Cách cũng đi lính đó nữa, tôi biết mặt nhưng không nhớ tên, hết thảy đều có chưn trong đoàn nghĩa binh.

- Vậy thì còn gì nữa mà kháng chiến. Lớp trốn đi mất, lớp ra đầu giặc hết rồi. Thằng Ðạt không ra mà đầu để chết một mình hay sao. Vậy mà ổng còn làm giận làm hờn, ổng mắng chữi là đồ hại dân bán nước.

Ông Nhiêu trợn mắt mà nói:

- Ai bội phản thì mặc họ. Thằng Ðạt là con của tôi, nó không được phép phản bội mà làm nhơ nhuốc danh giá của tôi. Người anh hùng biết rụng đầu cho trọn nghĩa, chớ không biết hàng đầu đặng mang nhục. Bữa nào chú Tư có đi chợ nữa, chú gặp thằng Ðạt thì chú nói với rằng tôi biết mưu mô của nó rồi. Giặc dụ dỗ nó ra hiệp tác, cho nó làm Cai để cậy tay nó phá hoại cuộc kháng chiến trong vùng nầy. Nó biết ai có chưn trong đoàn nghĩa binh hết. Nó chỉ chọc cho giặc bắt, rồi nó đứng bảo lãnh đặng dụ đi lính. Chú nói cho nó biết thứ phản bội không bao giờ được trường tồn. Tôi không nhận nó là con của tôi nữa. Nó không được trở về nhà tôi.

Bà Nhiêu ứa nước mắt, bỏ đi vô trong. Tư Ðịnh nói chuyện chơi một hồi nữa rồi về, nhưng thấy ông Nhiêu ghét đầu giặc và đi lính Mã tà, nên không dám nói việc của Ðạt nữa.

Ruộng của Ông Nhiêu chỉ hơn một mẫu, mỗi năm làm được một thiên lúa chớ không nhiều, bởi vậy cấy một bữa thì giáp hết. Bữa sau Ðậu với Trâm ở nhà. Bà Nhiêu ra ruộng coi lúa có nỗi hay không. Chừng về bà khen dâu con chăm nom nên cấy kỹ lưỡng, lúa ngay hàng ngay lối, không trôi nổi không ngã nghiêng.

Chừng Ông Nhiêu dắt Tâm đi ra trường học bà Nhiêu mới to nhỏ thuật lại cho con với dâu nghe các câu chuyện của Tư Ðịnh nói hồi sớm mơi bữa trước về sự gặp Ðạt và được Ðạt mời về nhà. Bà nói vì có Ông Nhiêu ngồi đó, lại ông đương giận Ðạt cãi lời mà theo giặc, nên bà không dám hỏi Tư Ðịnh coi nhà Ðạt ở chỗ nào và làm sao mà vào đó được.

Bà biểu Trâm đi lại nhà Tư Ðịnh mà hỏi kỹ đường đi nước bước rồi bữa nào chị em đi kiếm Ðạt một lần nữa coi.

Trâm vâng lời mẹ mà đi liền.

Qua nhà Tư Ðịnh. Trâm tỏ thiệt tháng trước nàng cùng chị dâu có ra Mỹ Tho mà kiếm anh. Lại xóm chài thì Ðạt không còn ở đó nữa. Người ta nói Ðạt đã làm Cai và coi lính Mã tà và cùng với người vợ mới là Hai Dần, qua ở bên thành. Trâm làm gan lên thành mà kiếm. Nhưng đi được một khúc rồi nàng thấy Tây nhiều quá, mà không có người mình hỏi cho biết nhà Ðạt ở đâu, nàng sợ Tây bắt, nên thối lui xuống xuồng mà về. Nàng hỏi Tư Ðinh bây giờ nhà Ðạt ở chỗ nào, đi đường nào mà lại đó, mình không phải lính, mình đi có bị tra hỏi bắt bớ gì không, xin nói cho nàng biết đặng bữa nào rảnh nàng đi kiếm nữa.

Tư Ðịnh mới bắt đầu thuật chuyện tình cờ mà gặp Ðạt rồi Ðạt dắt về nhà. Trâm nói mẹ đã thuật cho nàng nghe rõ rồi, chẳng cần nói nữa, xin chỉ đường lại nhà Ðạt mà thôi.

Tư Ðịnh nói:

- Tại chợ Mỹ cháu đi ra đường mé sông trở ra vàm, đi một chút tới bến đò.

- Phải. Có bến đò tôi thấy.

- Ừ, tới bến đò đó cháu quẹo qua phía tay mặt mà đi thẳng hoài, đi một khúc xa cháu sẽ thấy bên tay trái có trại lính Tây lúm khúm, ngoài cửa có Tây bồng súng đứng gác. Ngang đó, mà bên tay mặt là trại lính Mã tà cất bằng cây lá. Dựa mé đường có mấy cái nhà. Ðó là nhà của đội Cai ở, còn lính ở trại phía sau. Chú Hai Ðạt làm Cai chú ở cái nhà thứ nhì kế bên nhà ông Ðội.

- Mình đi vô tới đó, có ai tra hỏi gì hay không?

- Không mà vợ chồng chú Hai Ðạt có dặn nếu ai có hỏi thì cứ nói "Tôi đi thăm em gái ông Ðội Tồn là vợ chú Cai Ðạt" thì họ sẽ để cho đi thong thả.

- Chú có thấy vợ bé của ảnh hay sao?

- Thấy, có ra trình diện và cầm tôi ở ăn cơm. Mà hôm qua tôi giấu, không dám nói với ông bà. Người dó trắng trẻo, vui vẻ, ngộ lắm.

- Tôi có gặp, chị Hai tôi cũng biết nữa.

- Hèn chi thím đó cứ theo dặn tôi về nói với cháu và thím Hai hễ có đi chợ thì làm sao cũng phải ghé thăm chú Hai, chú trông lắm.

- Thím biểu cứ đi, đừng sợ chi hết. Tây dễ lắm, không cấm cản ai đâu. Mà có ai hỏi thì cứ nói đi thăm em gái ông Ðội Tồn, vợ chú Cai Ðạt, thì không ai dám làm khó.

- Ði dễ như vậy thì hai chị em tôi kiếm cớ mà đi. Hôm trước tôi đi khỏi bến đò, mà tôi đi thẳng chớ không quẹo qua tay mặt. Ði một khúc tôi thấy Tây tôi sợ rồi tôi đi trở lại. Té ra hôm qua chú nói chuyện nên cha tôi hay anh Hai tôi đầu Tây lãnh chức Cai Mã tà rồi phải hôn?

- Cha chả! Ổng hay giận chú Hai quá. Ổng biểu tôi nói chuyện cho chú biết ông không nhìn chú là con nữa, chú không được về nhà ông. Phải tôi dè như vậy thì tôi giấu, tôi có dám nói đâu. Bởi tôi thấy ông giận nên tôi nín luôn, không dám nói chú có vợ bé.

- Việc ảnh có vợ nhỏ và lãnh chức Cai hôm chị em tôi đi kiếm ảnh, thì người xóm chài có nói cho chị em tôi hay rồi. Nhưng về tôi nói với mẹ tôi mà thôi, chớ không dám cho cha tôi biết. Mà sớm muộn rồi thì cha tôi cũng phải hay. Thà là chú Tư cứ nói phứt cho rồi.

- Thím Hai hay chú ra ngoài Mỹ chú có vợ nhỏ thím không giận sao?

- Không, chỉ nói chồng mình phải bỏ nhà đi lánh nạn. Mình mắc nuôi cha mẹ, không thể theo giúp đỡ chồng được. May có người hảo tâm lập thế che chở cho chồng mình yên thân, lo cơm cháo áo quần cho chồng mình nữa. Vậy thì mình mang ơn chớ sao lại giận.

- Thím Hai hiền đức quá! Ðàn bà như vậy chồng nỡ nào bỏ được mà lo mất chồng. Chừng giặc giả yên rồi, chú sẽ trở về với thím chớ gì.

- Biết đâu chừng nào Tây về thì yên. Chừng nào yên chú Tư?

Thị Trâm từ mà về. Nàng nói chú Tư Ðịnh đã chỉ đường cho nàng biết mà đi tìm nhà anh rồi. Bây giờ hễ đi chợ được thì nàng đi ngay lại đó, chẳng cần hỏi ai mà chẳng sợ chi hết. Nàng lại nói cho mẹ và chị dâu hay Thị Dần có nhắn với Tư Ðịnh biểu Ðậu với Trâm vô mau mau, vì Ðạt trông lắm.

Thị Ðậu than: „Bây giờ lấy cớ gì mà đi chợ?". Bà Nhiêu nói: „Ruộng bây cấy xong rồi lúc nầy bây rảnh. Vậy bữa nào có chuối đúng vóc được chừng chục buồng và dừa nạo được ít quày thì đốn chở ra ngoài chợ mà bán đặng lấy thịt cá mắm muối mà ăn. Sao lại không có cớ?"

Hai nàng hiểu ý mẹ muốn mình đi thăm Ðạt nên bày biểu như vậy. Ðến xế hai chị em ra sau vườn thăm chừng dừa chuối coi chừng nào có thể đốn mà bán được. Hai nàng lấy làm mừng mà thấy dừa chuối đã có sẵn nhiều, trong năm ba ngày nữa có thể đốn mà chở một xuồng không hết. Hai nàng vô cho mẹ hay.

Tối lại bà Nhiêu nói cho ông hay dừa chuối có nhiều mà không thấy ghe lại mua. Con với dâu cấy xong rồi, lúc nầy nó ở không. Vậy bà tính biểu nó đốn chở ra chợ mà bán.

Ông Nhiêu nghe như vậy mà không nói gì hết, bởi vậy hai bữa sau bà Nhiêu biểu con với dâu đốn dừa chuối chở đi bán. Ðậu với Trâm đốn được 12 buồng chuối, 2 quày dừa xiêm với một nhánh cau đầy, chị em vui vẻ chắc bán có tiền bộn bộn. Khuya dậy nấu cơm ăn rồi đem đồ xuống xuồng, đồ nhiều lại nặng nên chiếc xuồng khẳm liển. Bà Nhiêu khuyên nên để lại ít buồng cho nhẹ xuồng. Hai nàng không nghe lời nói cứ kiềm giầm cho sâu mái mà bơi, thì không đến nổi chìm mà sợ.

Thi Ðậu than, ra tới chợ bị chiếc xuồng chở chở đầy dừa, chuối đầy không biết phải gởi cho ai coi đặng đi kiếm Ðạt với nhau. Thị Trâm mới tính, ra tới chợ đậu ở dưới chợ coi chừng đồ. Nếu có bạn hàng hỏi mà mua sỉ thì bán hết cho họ giá nào cũng được. Trong lúc ấy để một mình Trâm đi kiếm nhà Ðạt, kiếm được rồi sẽ quay trở lại gởi xuồng và rước Ðậu đi.

Lúc ở nhà sửa soạn đi thì chị em sốt sắn dữ lắm. Mà đi gần tới chợ thì hai nàng đều lo. Trâm đi kiếm Ðạt không biết họ có tra hỏi làm khó hay không còn Ðậu lo xuồng dừa chuối không biết bỏ cho ai đặng đi kiếm Ðạt. Thấy bước đường có chỗ trắc trở, hai nàng lo ngại nên hết vui.

Mặt trời mọc một lát thì hai chị em bơi ra tới chợ. Ðậu lựa một chỗ trống trước mặt chợ mà đâm vô. Trâm cắm cây giầm cho chắc rồi bước lên mé buộc xuồng vào đó. Ðậu cũng gác cây giầm lên đứng một bên em.

Hai chị em ngơ ngáo ngó vô chợ, ngó người đi qua đi lại trên đường, ngó tứ phía trong lòng không yên.

Trâm quen tánh cương quyết nên dụ dự một chút rồi cứng cỏi nói: „Thôi chị Hai ở đây nghe hôn. Ai có lại hỏi giá dừa chuối mà mua, thì chị liệu mà bán phứt cho rồi. Ðể em đi kiếm một mình thử coi. Bữa nay em quyết kiếm cho được, dầu phải ở tới chiều em cũng ở." Trâm nói dứt lời rồi xây lưng đi liền, đi theo hướng ra vàm y như lời của Tư Ðịnh dặn. Ði tới bến đò nàng thấy có con đường ngay đâm xuống đó. Lúc ấy người ta đi chợ lăng xăng. Nhưng nàng nhớ lời Tư Ðịnh nên biết con đường bên tay mặt đó là đường lên trại lính, bởi vậy nên nàng không thèm hỏi ai hết cứ quẹo qua đó mà đi, quyết đi mạnh mẽ, dầu gặp cọp cũng không sợ.

Trâm thấy phía trên có năm sáu người đi xuống phía bến đò, nhưng đi rãi rác chớ không phải đi chung. Thấy có người ta đi thong thả trong đường đó nàng càng thêm vững bụng.

Thình lình trong đám người đi ngược chiều đã có một thiếu phụ tay bưng rổ, miệng la lớn: "Cô Trâm phải cô Trâm đó không?"

Trâm ngạc nhiên nên chậm bước mà ngó. Người thiếu phụ đó xăng xớm đi riết tới. Trâm nhìn kỹ té ra là Thị Dần. Trâm mừng quá nên cũng đi xốc lại vừa đi vừa nói: „Phải, phải tôi đi kiếm nhà chị đây".

Thị Dần cũng mừng nên ôm Trâm mà hỏi:

- Bữa hổm anh Ðạt đi chơi, tình cờ gặp chú Tư Ðịnh, ảnh mời về nhà. Tôi nhắn với chú biểu cô với chị Hai ra chơi. Chú có nói lại hay không?

- Có, nhờ chú chỉ đường, nên tôi mới biết, rồi tôi liều mạng mà đi đây. Hôm trước hai chị em tôi có qua kiếm bên xóm chài.

- Tôi về bển, có nghe bà Sáu nói lại. Tôi có dặn bả nếu cô có ra nữa thì chỉ đường cho cô biết mà qua nhà tôi.

- Bữa hổm bả nói, bả biết ở bên thành, nhưng không biết ở chỗ nào. Tôi làm gan nên đi kiếm thử. Mới đi được một khúc thấy Tây tôi sợ quá, nên trở lại.

- Có sao đâu mà sợ. Bữa nay cô đi một mình hay sao?

- Có chị Hai chớ.

- Ủa chỉ ở đâu?

- Chỉ ở đằng chợ. Chỉ mắc giữ xuồng, tại dưới xuồng có dừa chuối nhiều quá.

- Vậy hả? Thôi cô trở lại chợ với tôi đặng lấy dừa chuối và gởi xuồng rồi dắt chị Hai đi luôn với mình.

Hai nàng dắt nhau trở lại chợ, Trâm hân hoan nên nói ngay ra:

- Chú Tư Ðịnh về nói chuyện đi chợ gặp anh Hai. Anh đã đầu giặc và lãnh chức Cai Mã tà, thì cha giận cha rầy quá, cha nhứt định không nhìn ảnh là con nữa. Bữa đó chị em tôi mắc cấy, không có ở nhà. Bữa sau tôi qua nhà chú mà hỏi thăm đường đi nước bước, chú mới chỉ cho tôi biết. Chị em tôi muốn đi kiếm, mà sợ cha rầy, không biết lấy cớ gì để đặng xin đi chợ. Mẹ mới nói dừa chuối đúng lứa bộn mà không có ghe đến mua. Chị em tôi cấy xong rồi. Vậy đốn dừa chuối chở ra chợ mà bán đặng mua thịt cá về ăn. Nhờ vậy nên đi mới được đây. Bây giờ đồ chở khẳm xuồng, tới 12 buồng chuối, 2 quầy dừa và một nhánh cau. Chị muốn dùng bao nhiêu thì chị lấy, còn dư lại chị làm sao bán giùm, chớ không lẽ chở về?

Thị Dần nói:

- Chở đồ nhiều dữ vậy sao? Nhưng cô đừng lo. Tôi quen với mấy chị bán dừa chuối. Ðể tôi giao cho mấy chị bán giùm cho cô.

- Ðược vậy thì khoẻ lắm. Mà còn chiếc xuồng. Nếu hai chị em tôi đi hết theo chị đặng gặp anh Hai thì bỏ xuồng mất còn gì?

- Không mất đâu. Tôi sẽ gởi cho họ coi chừng giùm. Ai dám lấy mà sợ. Chú Tư Ðịnh về có nói tôi làm bạn với anh Hai hay không?

- Thấy cha giận rồi chú thụt, chú không dám nói cho cha hay. Nhưng chú có nói với tôi, rồi tôi nói lại cho má với chị Hai biết. Mà chuyện đó hôm trước bà già ở xóm chài cũng đã nói cho chị em tôi hay rồi.

- Chị Hai coi bộ chỉ buồn hay không? Chắc chỉ giận tôi lắm phải hôn?

- Không có đâu, chỉ không buồn không giận ai hết. Chị không tin để lát rồi chị coi.

- Ðược như vậy thì tôi mừng lắm. Vì thấy anh Hai bị hoạn nạn, tôi muốn làm ơn che chở giùm. Trời khiến anh em lại thương nhau thành ra như tôi muốn giựt chồng của chị Hai. Nếu chỉ có phiền xin cô nói giùm: tôi không có ý xúi ảnh bỏ chỉ mà theo tôi đâu. Tôi thương ảnh, tôi làm bạn đặng giúp ảnh vậy thôi. Nếu trời khiến xui tôi có duyên nợ với ảnh, tôi phải ở đời với ảnh, thì bề nào chị Hai cũng là lớn, tôi là nhỏ tôi đâu có vượt bực hay thương ảnh một mình. Vậy chị em nên hoà thuận với nhau đặng chung lo cho chồng tốt hơn là đố kỵ.

- Chỉ nói ảnh lánh nạn, chỉ mắc nuôi cha mẹ không theo được mà lo cho ảnh. Có chị ở ngoài nầy chị lo cơm cháo áo quần cho ảnh thì chỉ mang ơn lắm, chỉ có giận đâu.

- Chỉ nói như vậy thì đáng cho tôi kính phục chỉ lắm.

Chị em nói chưa hết chuyện thì ra tới bến chợ Dần thấy Ðậu đang đứng tại mé sông thì kêu: "Chị Hai! Chị Hai!" vừa kêu vừa đi riết lại. Hai người mừng nhau vui vẻ vô cùng.

Dần ngó dừa chuối dưới xuồng rồi nói: „Bây giờ phải lo xử cái đám dừa chuối nầy cho rảnh tay chưn đặng chị em mình lên nhà rồi sẽ nói chuyện. Ðồ ở nhà chở ra thì phải để chút đỉnh cho anh Hai ăn.Vậy xin cô Ba lựa đem lên bờ một quày dừa với hai buồng chuối đặng lát nữa mình xách lên nhà. Còn lại bao nhiêu thì mình để dưới xuồng. Ðể tôi lại tôi giao cho chị Thiện bán giùm rồi trưa chiều mình trở ra mà lấy tiền"

Dần nói rồi bỏ đi lên chợ.

Trâm xuống xuồng xách bỏ lên một quày dừa, với 2 buồng chuối, ít nải mà trái no tròn. Chẳng bao lâu Dần trở lại có một chị theo sau, Dần chỉ chiếc xuồng mà nói: „ Ðồ trong nhà gởi ra cho tôi bán, dừa chuối với cau đó. Chị làm ơn gởi bán dùm cho tôi nghe hôn. Chị liệu giá phải thì thôi. Tôi không nói gì đâu chị đừng ngại".

Chị Thiện nói: „ Ðược mà, thím để đó cho tôi, thím Cai. Chị em mà. Ðể tôi bán cho.

Thị Dần hỏi:

- Chừng nào em tôi ra lấy tiền được?

- Trưa xế gì lấy tiền cũng được.

- Tôi gởi luôn chiếc xuồng cho chị coi giùm được hôn?

- Ðược mà. Ai dám lấy mà sợ. Ðể đó cho tôi.

Bây giờ hai chị em mới tính chia nhau xách hai buồng chuối với quày dừa mà đi. Dần nói chưa đi được, vì nàng còn phải lên chợ mua thịt cá đặng đem về nấu cơm ăn. Vậy thì để đồ lại đó đặng đi chợ một lát rồi sẽ trở lại mà xách. Ba người dắt nhau vô chợ. Dần mua thịt cá rau cải rất nhiều bỏ hết vô rổ rồi mới trở lại bến.

Trâm mạnh mẽ giành xách quày dừa. Hai người kia chia với nhau mỗi người xách một buồng chuối, Ðậu thấy Dần đã bưng một rổ đồ ăn, lại còn xách chuối nữa, sợ nàng mỏi tay nên Ðậu biểu để Ðậu xách luôn 2 buồng chuối. Dần không chịu, nói một tay bưng rổ, một tay xách chuối được.

Ba chị em đùm đề xách đi, mới tới ngang bến đò thì gặp Ðạt mặc sắc phục lính, hai tay áo có gắn lon vàng tươi, đầu đội nón gõ, đương thả rều đi chơi.

Ðạt thấy vợ, thấy em thì mừng quýnh, giăng tay cản lại, cười nói om sòm giữa đường. Ðậu với Trâm đã có Dần, mà còn có thêm Ðạt nữa thì hết sợ Tây, hết lo ai tra vấn, nên cũng mừng nói lăng xăng, thêm Dần xen vô khoe mình đi rước chị em. Cả 4 người đều giành nhau mà nói, gây ra một cuộc gia đình hội hiệp thân ái tràn trề, giữa đám người đi chợ đông dày, dưới bóng cây gáo che tàn mát mẻ.

Mừng nhau rồi Ðạt nói: „Thôi đi về nhà rồi sẽ nói chuyện. Ðưa bớt đồ qua xách giùm cho." Ðạt giựt quày dừa xiêm của Trâm mà xách Trâm không lẽ đi tay không nên rước rổ đồ ăn của Dần mà bưng, để cho Ðạt xách dừa đi giữa. Hai vợ xách mỗi người một buồng chuối đi kềm hai bên làm cho người đi đường cũng ngó mà cười chúm chím.

Bây giờ Trâm yên chí lại nhẹ tay mới nhìn cảnh vật dọc đường cho nhớ đặng sau đi nữa.

Lính Tây đi tốp 3 người đi tốp 5 người, qua lại dập dều, không ai nói động tới mình hết vậy mà họ đi vô trong xóm trong làng thiên hạ sợ trốn hết. Lời Tư Ðịnh nói không sai, thiệt đi một khúc xa xa thì tới trại lính. Bên tay trái thì thành của Tây có lính bồng súng đứng gác râu ria xồm xàm. Còn bên tay mặt là lính Mã tà. Dựa lộ có mấy nhà lá nhỏ để cho đội Cai ở, lính ở hai dãy trại cất ở phía sau.

Tới cái nhà đầu, Dần chỉ mà nói: „Nhà nầy ông Ðội là anh tôi ở. Anh Hai làm Cai nên ở nhà kế bên đây, từ rày sắp lên chị Hai với cô ba ra thăm thì cứ đi thẳng vào đây, đừng sợ chi hết".

Vô tới nhà, Ðậu với Trâm đi từ trước ra sau mà coi. Nhà nhỏ lợp lá vách lán, mà gọn ghẽ sạch sẽ lắm.

Ðạt đi theo mà nói: „Ðể nấu cơm ăn hai em ở chiều mát sẽ về." Ðậu nói: „Ðâu mà được. Ở lâu cha mẹ trông". Dần nói: „Cha mẹ có hỏi tại sao về trễ, thì chị nói phải chờ bán cho hết dừa chuối rồi mới về được, mà thiệt hồi nảy chị Thiện nói đến xế mới lấy tiền, thế thì làm sao lấy tiền được mà về sớm".

Trâm nói: „Lấy tiền trễ rồi thì làm sao mua thịt cá được mà đem về cho mẹ."

Dần nói: "Hồi nảy tôi có mua vài cân thịt với ít con cá lóc để gởi về cho mẹ sẵn rồi. Cô khỏi lo, chừng về tôi đi theo ra chợ mua khô mắm gởi thêm nữa"

Ðạt dặn Dần: „Chiều em chia bớt dừa chuối mà cho anh Ðội, chớ mình anh ăn gì hết. Chia cho ảnh một buồng chuối với nửa chục dừa nghe hôn. Thôi, mấy chị em áp nấu cơm ăn".

Ba nàng, người làm cá, người nhúm lửa, người xắt thịt phụ nhau đặng dọn bữa cơm sớm mơi. Ðạt nhắc một cái ghế đem vô đó mà ngồi đặng nói chuyện với vợ và em.

Ðạt hỏi Trâm:

- Bữa hổm chú Tư Ðịnh về, chắc chú có nói Qua đi lính làm Cai phải hôn em?

- Bữa đó tôi với chị Hai mắc đi cấy không có ở nhà. Chú qua nói với cha mẹ. Cha giận quá. Cha dặn chú có gặp anh nữa thì nói cha không nhìn anh là con của cha nữa. Anh đã phản bội mà đầu giặc, anh bán nước hại dân, anh không được về nhà cha nữa. Từ bữa cha đi Sài Gòn về, cha hay anh đi thì cha đã giận lắm rồi, không nói tới tên anh nữa. Chừng hay anh đi lính cho Tây cha càng giận thêm.

- Mẹ có giận anh hay không?

- Mẹ không nói gì hết. Tôi coi ý mẹ không giận. Nhưng cha nói thế nào cha nói, mẹ không dám cãi với cha

- Hai em nghĩ coi, người ta biết qua trong nghĩa binh nên hăm bắt qua. Qua phải lập thế đặng yên thân chớ. Qua thưa với cha thì cha không cho. Ông biểu phải tiếp tục kháng chiến. Thà chết cho thơm danh, chớ đầu giặc xấu hổ lắm. Cụ Thủ Khoa bị đày rồi. Anh em trong đoàn nghĩa binh ra đầu thú cũng nhiều. Còn gì đâu mà kháng chiến. Huống chi tầm vông với mác thong mà cự với súng đạn, cự làm sao nổi. Cha biểu phải chết để trả nợ non nước. Chết mà không lấy nước lại được thì chết có ích gì? Chết đặng cho thiên hạ vinh thân phì gia, ăn trên ngồi trước. Cha không thương qua cha từ qua thì qua chịu chớ thiệt chết như vậy qua không chịu chết. Mẹ có phiền qua thì hai em cắt nghĩa cho mẹ nghe. Qua phải đi lính đây là bất đắc dĩ, qua phải ẩn núp cho khỏi ở tù, khỏi bị đày, chớ qua không có bán nước hại dân gì hết.

Thi Ðậu nói:

- Có một mình cha giận anh cha nói anh bán nước, chớ mẹ có nói đâu. Mẹ cũng muốn cho anh sống, chớ đâu có muốn cho anh chết.

- Còn việc nầy xin em đừng phiền qua. Ra ngoài nầy có một mình, không ai lo cơm nước cho qua, nên qua phải gá nghĩa với cô Hai Dần đây đặng trước qua nhờ thân thế ông Ðội che chở. Sau qua có người lo cơm nước. Vì thời cuộc ép buộc nên mới sanh chuyện vợ lớn vợ nhỏ như vầy, xin em đừng buồn. Cha mẹ cầm trầu cau cưới em, lại vợ chồng ăn ở với nhau có con. Bề nào em cũng làm lớn, không mất phần đâu mà sợ.

- Em mắc nuôi cha mẹ, không theo mà giúp đỡ anh được. May có cô Hai lãnh lo cơm cháo áo quần cho anh thì em cám ơn cô chớ đâu có buồn.

- Kêu nó bằng em chớ đừng có kêu bằng cô.

Thị Dần tiếp: „Chị Hai nói mấy câu đó đủ cho em thấy chị biết thương em. Em mừng và cám ơn chị lắm. Em hứa, em sẽ kính phục chị hoài hoài và em sẽ thay mặt cho chị mà lo cho anh Hai, để chị rảnh mà lo cho cha mẹ. Chị em mình đồng tâm hiêp lực chung nhau mà thờ chồng và thờ cha mẹ chồng. Phận em mồ côi lại không có chị em ruột. Làm bạn với anh Hai em có được một người chị với một người em gái, em nhận thấy người chị cũng như người em đó, cả hai đều không ghen ghét em, thiệt em mừng lắm vậy. Em nguyện em sẽ tận tâm mà đáp thạnh tình ấy".

Ðạt nói: "Qua đã biết ba người biết bụng nhau rồi, thì nên thương yêu hoà thuận lẫn nhau cho vui, đừng có đố kỵ giận hờn với nhau chi hết. Má thằng Tâm có ra thăm qua nữa thì cho thằng Tâm theo đặng qua gặp nó một lát. Vắng mặt lâu qua nhớ nó quá"

Thị Ðậu nói: "Cha không cho đâu anh. Hôm trước tôi muốn chở nó đi. Cha nói đi nắng gió cha không cho. Mà từ bữa đi Sài Gòn tới nay, cha bắt nó học tối ngày có rời nó đâu".

Thị Trâm hỏi anh:

- Bây giờ anh không đi câu đi lưới nữa, anh để chiếc ghe lườn ngoài nầy làm chi?

- Hôm dọn về ở bên nây, Qua không biết gởi cho ai, nên Qua cho người dưới Kỳ Hôn mướn. Họ mướn luôn câu và lưới nữa.

- Tôi muốn đem về trỏng đặng chị em tôi câu lưới kiếm cá ăn, hoặc chở dừa chuối đi bán, chiếc xuồng lóc chóc quá, chở nhiều sợ chìm dữ.

- Ðược để Qua đòi lại, rồi sau hai chị em có ra nữa rồi chèo về trỏng mà dùng.

Cơm chín rồi dọn ra mà ăn với nhau, chồng vợ anh em thuận hoà vui vẻ hết sức. Cuộc vui ấy kéo dài đến xế rồi Thị Ðậu sợ ở nhà cha mẹ trông nên nàng đòi về.

Ðạt với Dần thay áo rồi đưa Ðậu với Trâm ra chợ. Dần bắt hai con cá lóc bỏ vô rổ với xâu thịt heo mua hồi sớm mơi, giao cho Trâm đem về. Ra tới chợ dần lại chỗ chị Thiện bán trái cây mà tính tiền dừa chuối. Chị Thiện nói đồ bán chưa hết nhưng chị lấy 7 quan tiền mà trả cho Dần đặng Trâm với Ðậu mua đồ đi về.

Ðậu lấy tiền ấy mua một gói trà, một cân mắm, hai ốp khô hô[2] và một con khô lóc đem xuống xuồng. Dần mua kẹo cốm gởi về cho Tâm, rồi Ðạt xách trà với bánh in, thèo lèo gởi về cho cha mẹ nữa. Dần căn dặn Ðậu với Trâm sau có ra thì đi ngay vô nhà, đừng sợ chi hết.

Ðạt kính gởi lời về thăm cha mẹ, dặn Trâm khuyên với mẹ thủng thẳng khuyên giải cho cha bớt bực tức giận hờn, Ðạt nói mà nước mắt rưng rưng làm cho vợ với em cảm động cực điểm.

Kẻ ở người về cùng nhau bịn rịn một hồi lâu, dặn dò đủ chuyện rồi Thị Ðậu với Thị Trâm mới xuống xuồng bơi đi về Tịnh Giang

Ðạt đứng ngó theo chàng ưa nước mắt, lòng thắt thẻo mặt buồn so. Chừng xuồng khuất rồi, Dần mới kéo cánh tay Ðạt biểu đi về kiếm chuyện mà nói cho chồng khuây lãng.


[1] chất nhựa lấy từ cây dầu. Dầu chai trộn với sớ gai để trét những chỗ hở của ghe xuồng

[2] cá hô (một loại cá biển to lớn dài hơn 1 mét) được xẻ đôi phơi khô và cột lại thành từng ốp