Nguyễn Vy-Khanh

thế-kỷ tiểu-thuyết (01 02 03)

( http://www.hopluu.org/hl73/NGUYENVYKHANH.htm)

 

Một số đặc điểm của tiểu thuyết :

điển h́nh, độc đáo, cá tính, mới, sáng tạo

Điển h́nh khiến nhân vật, sự việc có một nội dung khác, độc đáo. Nhân vật có chân dung nhưng cũng phải có những tính cách bên trong, nội tâm, ước vọng,... Đó là những Chí Phèo, Thị Nở, của Nam Cao, Xuân Tóc Đỏ, Thị Mịch,.. của Vũ Trọng Phụng, thằng Côn, thằng Vũ, con Thuư của Duyên Anh, ... Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh của Nguyễn Huy Thiệp.

Nhân vật trong văn học cổ thường có mẫu mực định trước, chung chung, người hiền th́ lời nói vóc dáng thanh nhă dịu dàng, kẻ ác th́ cử chỉ, hành tung ngược ngạo, thâm hiểm. Nhân vật đi với lư tưởng luân lư đạo đức thường đẹp đẽ: Cúc Hoa, Thạch Sanh, Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Tử Trực, ... Họ "phải" đẹp, tốt, to lớn quá thành ra xa con người thường, họ trở thành mẫu mực, lư tưởng, gương noi theo, thay v́ bóng soi của người đọc! "Văn dĩ tải đạo", cốt cách đă được qui định từ trước, tất cả khiến mất điển h́nh văn chương ! Từ những h́nh tượng "hoa ti-gôn" cho t́nh đẹp mà lỡ, hoa sim tím = t́nh buồn và người quan tái kẻ hậu phương, con nai vàng = người thi sĩ ngây ngô,... cộng với những điển h́nh của nhân vật đưa đến tổng thể sáng tạo mới.

Thời mở đầu, các tiểu thuyết đă đặt nặng vấn đề điển h́nh : Kim Anh Lệ Sử, Tố Tâm,... đều cố vẻ nên những nét riêng cho các nhân vật, nhưng hăy c̣n đơn sơ, có khi chưa đạt tới, như chân dung và tâm lư của nhân vật Kim Anh bị ch́m trong một chuỗi những hoàn cảnh và môi trường xă hội, gần với một phóng sự hơn là tiểu thuyết ! Mặt khác, những nhân vật điển h́nh của Nhất Linh như Dũng, Trúc, Thái trong Đôi Bạn,... của Khái Hưng như Ngọc trong Hồn Bướm Mơ Tiên. Phạm Thái, Quang Ngọc, ... trong Tiêu Sơn Tráng Sỹ chính là con người và tâm trạng của chính tác giả Khái Hưng, Nhất Linh! Nhân vật của Nguyễn Tuân điển h́nh cho một nếp sống vừa mất nhưng vết tích hăy c̣n qua hành cử, nếp sống, ngôn ngữ của nhân vật, trong khi đó các nhân vật tiểu thuyết mới như của Hoàng Ngọc Biên th́ không hành động, chỉ sống bằng suy diễn trầm tư khiến không khí chung như những giấc mơ!

Điển h́nh muốn thành công phải sống, sinh động. Chí Phèo là một trong nhữ nhân vật linh động nhất của cả thế kỷ văn học không thua ǵ AQ của Lỗ Tấn! Xuân Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng thật điển h́nh, từ bên ngoài đến tâm lư. Hắn nắm được cái quy luật của cái xă hội thượng lưu mà một khi đi sâu sẽ thấy toàn bịp bợm: "Nó biết rơ điều ấy lắm. Nó chỉ chờ số phận lôi nó lên cao chót vót". Kể từ giây phút hắn nắm được điều đó, hắn biến thành một con người khác, một thần tượng rơ nét, một "giáo sư quần vợt", "cái hy vọng của Bắc-kỳ"(29) trở thành kẻ "cứu quốc" được thưởng Bắc đẩu bội tinh và được xă hội thượng lưu mời làm hội viên Khai-trí Tiến-đức! Trong các tiểu thuyết của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, cảnh sinh động, cụ thể khiến điển h́nh đa dạng, phong phú về mặt thẩm mỹ học. Nhân vật điển h́nh phải có không gian, hoàn cảnh, ...điển h́nh! Chị Dậu của Tắt Đèn, ... mới và điển h́nh v́ chị đại diện cho phụ nữ khuất phục hoàn cảnh nghĩa là không giống những người đàn bà nhà quê khác!

Trong số những nhân vật điển h́nh không đạt có trường hợp Cô Giáo Minh của Nguyễn Công Hoan phải nhờ trúng số mới giải quyết được xung đột gia đ́nh, hoà hoăn được với bà mẹ chồng, thành ra hỏng! Điển h́nh giai cấp mà c̣n có những nhân vật điển h́nh cho cả thời đại - điển h́nh phải khớp với thời đại, từ nhân vật, sự kiện và bối cảnh - như Dũng của Nhất Linh, ... Đây là mảnh đất mà tiểu thuyết hiện thực cộng sản bị thất bại. Tiểu thuyết hiện thực xă hội chủ nghĩa đă đặt quá cao vấn đề điển h́nh hoá. "Nó thèm khát một trật tự xă hội mà có được th́ nó sẽ có tất cả" (Đất Quảng). Tiểu thuyết loại này quá nhắm nhân vật chính diện mà thất bại khi để nhân vật phản diện lấn chỗ, những người này lúc nào cũng có những dục vọng cá nhân "thấp hèn" v́ từ đó có thể lộ những cái động cơ giai cấp. Tiểu thuyết mảng này hay đề cao "tính giai cấp", "lư lịch". Tuyệt đối hoá chủ-nghĩa hiện thực đồng nghĩa với việc phủ nhận tự do sáng tác và phủ nhận sự đa dạng, cá tính của tác phẩm! Bà mẹ kháng chiến, phụ nữ anh hùng như Út Tịch (Người Mẹ Cầm Súng) một bà mẹ quá "lư tưởng" đủ đức tính như những bà mẹ thời Nho giáo nhưng cũng là một anh-hùng - cưỡng bách - chống Mỹ thời chiến tranh Nam-Bắc. Ḥn Đất của Anh Đức toàn là những bà mẹ và phụ nữ vừa đủ đức hạnh vừa là anh-hùng chống Mỹ nguỵ! Đầy "lư tưởng cao cả", sống trong những nghịch cảnh đầy kịch tính v́ "thử thách" nhiều. Họ muốn đưa các nhân vật này lên thành điển h́nh "kích thước cỡ lớn của dân tộc, của thời đại"! (30). Thật ra các nhân vật điển h́nh này chỉ là những nhân vật của một chủ-nghĩa lăng mạn không tưởng!

Mặt khác, thời Tự-Lực văn-đoàn các nhân vật nữ có chỗ đứng tương đối tốt đẹp trong công cuộc hiện đại hóa. Trong Nam ngay sau 1954, nhân vật nữ vẫn c̣n đó nhưng mất dần thế đứng, nhường chỗ cho các nhân vật nam của Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Y Uyên, Hoàng Ngọc Biên,... đưa đến sự xuất hiện đồng loạt của nhiều nhà văn nữ như Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ,... như để vừa đ̣i quyền sống và đồng thời quyền hiện diện trong tiểu thuyết. Nhân vật nữ h́nh thành từ cảm quan và tư duy tác giả nữ, không khí tiểu thuyết là không khí do nhà văn nữ tạo nên! Nhân vật và nhà văn nữ tiếp tục lấn đất khi ra đến hải ngoại sau 1975, nhưng khi các đợt đông đảo nhà văn H.O. tái định cư ở đất Hoa-kỳ, lúc đó nhân vật nam mới t́m lại đất đứng, nhưng được bao lâu?

 Kỹ thuật tiểu thuyết

Viết một tiểu thuyết là kể một câu chuyện, với khả năng tưởng tượng và khéo dùng h́nh ảnh, tiếng nói và nhắm người đọc (một số trường phái chủ trương không nhắm độc giả). Yếu tố "câu chuyện" có thời sẽ mất quan trọng, nghĩa là không nhất thiết phải có một câu chuyện. Thường kỹ thuật tiểu thuyết thâu tóm ở nhân vật, bối cảnh, biến cố khởi đầu, các động tác dồn dập đưa đến bất ngờ hoặc tột đỉnh tiểu thuyết và cuối cùng kết thúc chuyện. Chủ đề, nội dung, ... quan trọng ít nhiều, nhưng tác giả, người sáng tạo, dĩ nhiên phải làm chủ t́nh h́nh, chủ chiếc đũa sáng tạo. Chính kỹ thuật viết khiến các tác giả khác nhau, ở cách truyền đạt và xử dụng ngôn từ. Thanh Tâm Tuyền có văn phong của ông, Sơn Nam văn phong khác, khác mà vẫn hay. Văn phong hay là không khí tiểu thuyết, sau đó mới đến yếu tố nhân vật! Hay cũng có nhiều cái hay tùy tŕnh độ mỹ học của người đọc và nhiều yếu tố khác như thời điểm đọc, cách đọc, v.v. Dĩ nhiên c̣n yếu tố thời đại, Khái Hưng có phong cách viết tuyệt vời ở thời ông, nhưng người trẻ cuối thế kỷ chưa chắc đă thích đọc, mà nếu ông sống vào thời nay, có thể kỹ thuật ông cũng khác! Tiểu thuyết là một bộ môn nghệ thuật, sáng tạo là chính, do đó thay đổi, tiến hóa không ngừng. Tiểu thuyết năm 2000 không thể viết như Tản Đà viết Giấc Mộng Lớn hay Hoàng Ngọc Phách viết Tố Tâm. Dĩ nhiên năm 2000 người viết tiểu thuyết Việt Nam vẫn xử dụng cùng ngữ vựng, cùng cách viết tiếng Việt và đánh dấu, đặt vị trí trong câu, một số h́nh ảnh và suy nghĩ hoặc nh́n thực tại vẫn như cũ. Nhưng trong toàn thể, câu văn, cách xử dụng chữ nghĩa đă có thay đổi, mà h́nh ảnh hay cách nh́n cuộc đời trước mặt có thể khác. Con người sống vào cuối thế kỷ XX khoa học hơn, xa thần quyền hơn, lư do xử dụng chữ nghĩa có thể đă khác chăng? Sáng tạo cần linh động, sống động, gây nên cái hồn cho tác phẩm. Sáng tạo ở bút pháp, có thể cô đọng, có thể tượng trưng, ấn tượng. Kỹ thuật tả cảnh, tả t́nh, dùng độc thoại, xử dụng nhân vật ở ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba – "tiểu thuyết mới" của Pháp ở thập niên 1960 xử dụng ngôi thứ hai. Kỹ thuật là bận tâm của người viết, v́ người đọc chỉ muốn thưởng thức cái được viết ra, câu chuyện!

Nhưng trên hết, tiểu thuyết là chuyện không thật, chuyện bịa, nhưng có biến bịa thành như thật mới hấp dẫn được người đọc. Nguyễn Đ́nh Thi lập lại ư của Nam Cao cho rằng tiểu thuyết là truyện bịa như thật (31). Trần Doăn Nho trong Lời Mở của cuốn tiểu thuyết Dặm Trường mới xuất bản gần đây (2001), chỉ viết có ba chữ "viết là bịa", đến phần Kết, ông hạ bút "viết xong, đọc lại, muốn viết lại từ đầu. Nhưng quá muộn. Nó đă ra đời mất rồi!" (32).

Khác với nghệ thuật "bịa", kỹ thuật rập khuôn có sẵn tức kỹ thuật minh họa nghĩ cho cùng là kỹ thuật tiểu thuyết như một phương tiện, trở thành con thuyền chở ư thức hệ, trở thành tuyên truyền, lẩn quẩn trong ṿng đai phương tiện này, người gọi là làm văn chương sẽ không phân biệt được hiện thực và cái thật, cái thật và cái như-thật. Sáng tạo trong bốn bức tường minh họa, người viết khỏi phải lo người đọc có thích hay không, đỡ phiền lụy với chỉ đạo, nhưng không c̣n là văn chương! Trong nhiều tiểu thuyết, kỹ thuật ḍng ư thức tức độc thoại nội tâm khiến người đọc ḥa nhập làm một với nhân vật, theo dơi những diễn biến hành động, tâm lư của nhân vật ... Tiểu thuyết đến gần biên giới thơ dưới ng̣i bút của Thạch Lam (Gió Lạnh Đầu Mùa, Tiếng Chim Kêu, Dưới Bóng Hoàng Lan,..), Hồ Dzếnh và Nguyễn Tuân. Cái Tôi của tác giả bắt đầu xuất hiện, hiền ḥa hoặc u uất, thất chí! Với thời gian cái Tôi trở nên kẻ thù - kẻ nội thù, trong một thế giới nhiều hoài nghi, biến động ngoài tầm kiểm soát của chính con người, những cái Tôi sỗ sàng của Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu ,... Nhưng tính thơ vẫn sống ở những tác giả sau, nhất là Nguyễn Đ́nh Toàn trong Con ĐườngÁo Mơ Phai. Ngôn ngữ tiểu thuyết đă biến thay theo thời đại và trở thành "căn cước" của tác giả!

Kỹ thuật viết thay đổi, "tiến bộ" theo thời gian sự nghiệp và kinh nghiệm ? Nguyễn Đ́nh Toàn là một thí dụ điển h́nh. Tiểu thuyết đầu Chị Em Hải xuất bản năm 1961, cốt truyện, nhân vật rơ rệt và động tác giản dị. Tác giả chi tiết ở những mô tả y phục và cử chỉ nhân vật. Ư tưởng làm nền có thể đạo đức, triết lư, nhưng chỉ mới ở ngưỡng cửa những ư tưởng phi lư, buồn nôn. T́nh yêu như một "thú" đau thương. Hải ham đọc sách, thông minh nhưng lănh đạm đến với t́nh yêu, lần đầu là căn gác lỡ lầm đáng tiếc! Những người tuổi trẻ này sống với "những khắc khổ đau đớn của cuộc đời vấy lấy họ. V́ họ đọc sách và biết nhiều họ sống lư tưởng nhưng lại biết rơ ḿnh viễn vông và sự thất vọng tàn của họ (...) Họ thu ḿnh trong chiếc vỏ cứng của cô đơn. Đó là một sự kiêu ngạo vô lư. Nhưng chính đó cũng là cứu cánh của họ. Nếu đập vỡ cái vỏ ấy, họ không c̣n là họ nữa, có thể họ sẽ tự tử v́ không chịu nổi cái vô lư của hiện hữu ḿnh...". Đến Những Kẻ Đứng Bên Lề (1964), nhân vật phức tạp hơn, có sinh khí hơn, trong một cuộc sống đầy bất trắc của chiến tranh. Thái, nhân vật chính, sống buông thả, sa đọa, nhưng cuối cùng bỏ Sài G̣n để trở về với biển cả. "Tôi là một kẻ viễn vông, ưa suy nghĩ như một cái cây tự mọc lá" (33). Con Đường (1967) đánh dấu một chặng đường mới trong việc t́m kiếm kỹ thuật và ngôn ngữ, trước đó, ông "thường bận tâm về vấn đề của cuốn tiểu thuyết sẽ viết, kể từ cuốn Con Đường tôi bận tâm về vấn đề viết chính cuốn tiểu thuyết đó nhiều hơn" như lời ông xác nhận trong một phỏng vấn của tạp chí Văn (34). Đến Áo Mơ Phai (1972), giải thưởng Văn-học Nghệ-thuật 1973, yếu tố "truyện" nhường chỗ cho "truyện kể" để tác giả kể hồi ức, kỷ niệm. Tập tiểu thuyết bắt đầu như sau:

"Hà Nội 1954, tháng sáu chưa hết, nhưng mùa Thu đă đầy hơi lạnh. Buổi chiều im trong văn pḥng bước ra tới cửa Ṭa Đô Chánh, Quang đă có thể trông thấy sương mù trên mặt hồ Gươm".

Và kết thúc ở trang 309 :

"Lan ao ước được ḥa hợp; được tan biến vào Hà nội, đồng thời nàng cũng hoảng sợ khi tưởng tượng ra nàng đang kề sát mặt mũi ḿnh bên cạnh cái xác chết đang bắt đầu lạnh ngắt.

Nàng cũng mong mỏi một buổi chiều nao ngồi ở bao lơn đó, nàng sẽ trông thấy Quang đi tới. Lan không gọi nhưng Quang cũng sẽ ngửng lên và trông thấy nàng. Họ sẽ phải gặp nhau một lần cuối cùng như thế trong Hà nội, rồi có sẽ gặp nhau ở nơi xa xôi nào khác nữa không, là việc sau.

Ḷng mong đợi gay gắt đến nỗi, đă có khi Lan tưởng như nàng sẽ chết thật, sẽ không bao giờ thở được nữa"(35).

Ở giữa là cuộc sống b́nh thường của những nhân vật vốn là bạn hữu và gia đ́nh trong chốn không gian đó! Mất mát và đợi chờ là nội dung của truyện, nếu người đọc muốn ngừng lại ở một nội dung, một cốt truyện, một thảm kịch. Kỹ thuật tiến đổi, như tác giả xác nhận:

"Mỗi tác phẩm đă viết ra như que diêm đă được đốt cháy, nhà văn có bổn phận phải sang tạo, dù rằng toàn bộ tác phẩm chỉ là sự nối dài từ cuốn đầu tiên. Nhiều người đă nói tôi dùng lối viết quá dài, cả trang không chấm trong Áo Mơ Phai này mới mang đủ sắc thái không khí của Hà Nội. Nhân vật chính trong tác phẩm không phải là những nhân vật được nhắc tới trong sách mà chính là thành phố Hà Nội. Ai sống ở nơi này thường có cái cảm tưởng đang song trong một giấc mơ, có lẽ là giấc mơ không bao giờ phai nhạt với sương mù cơn mưa sướt mướt hơi lạnh của mùa thu... Áo Mơ Phai thoát ra từ cơn mơ đó từ khi tôi xa Hà Nội mới 17 tuổi..." (36).

Kỹ thuật của Dương Nghiễm Mậu trong Đêm Tóc Rối trộn lẫn quá khứ hiện tại và chuyện ao ước hoặc chưa xảy ra; con người ở đây sống trong bất toàn, trái ngang - sống bám, già bám trẻ, trẻ bám đĩ điếm . Với Gia Tài Của Mẹ, Nhan Sắc, cốt truyện chỉ là cái cớ cho những tra vấn trí thức, chính trị - những kỹ thuật từng bị phê phán chung với Thanh Tâm Tuyền là "cố làm vẻ snob, trí thức một cách hợm hĩnh (...) đời sống nội tâm của họ lúc nào cũng bị xâu xé, khích động v́ sống trong sự mê sảng chuộng thời thức của tác giả (...) chuyên đề cập tới thân phận con người trong một bộ đồng phục" (37).

Kỹ thuật tiểu thuyết ở những thập niên 1960-1970 trở thành tư tưởng và mỹ học của chính tác giả. Nhà văn triết lư khi miêu tả sự vật, sự việc, khi tả t́nh và xâm nhập vào đời sống của nhân vật. Đặt nền trên mỹ học, siêu h́nh của vô thể hay đang-h́nh-thành! Nguyễn Thị Hoàng nhiều năm sau Ṿng Tay Học Tṛ, tiểu thuyết gợi ṭ ṃ nơi người đọc t́m kiếm tiểu sử tác giả của nó, tiểu thuyết làm dáng hiện sinh, đă trở lại gây bất ngờ với Cuộc T́nh Trong Ngục Thất (1974) viết về những bi hài của cuộc đời, những thăng trầm của những con người trẻ ham sống, trong khi chiến tranh hoành hành. Địa ngục ở ngay trước mặt, đời sống trở thành ngục thất cho mỗi cá nhân. "trước khi dành đêm cho ḿnh, vợ bảo chồng nhỏ nhẹ Anh hăy mặc quần áo tử tế và thắp nhang lên bàn thờ Phật" (38). Sau 1975, bà xuất bản Nhật Kư Của Im Lặng (1990) như một tổng kết những suy tư triết lư lẫn nhân sinh quan về cuộc đời, t́nh yêu, hạnh phúc và những đấng tối cao. Nói chung, đối với các tác giả mới này, có hai khuynh hướng: hoặc tiểu thuyết trở thành cái khung, cảnh ít quan trọng và nhân vật thứ yếu hoặc ngược lại, chỉ có nhân vật, thế giới tiểu thuyết chỉ là cái khung v́ đó là một không gian nội tâm hóa, cái cớ để suy tư, phân tích nội tâm. Cuộc đời có đấy nhưng không quan trọng, ư nghĩa cuộc đời là do con người gán cho; câu chuyện xoay quanh nhân vật, nhân vật trở thành tâm điểm! Có tác giả như Thảo Trường đưa thêm yếu tố tinh thần, tâm linh, cho cái không gian vô nghĩa đó! Như vậy, kỹ thuật tiểu thuyết trở nên quan trọng, là cái riêng của mỗi tác giả, trong cách kể, cách viết, trong không khí mà tác phẩm tạo nên được!

Sau hơn một thế kỷ hiện diện, tiểu thuyết Việt Nam đă phát triển về phẩm cũng như số lượng. Việt Nam chưa có văn hào được giải Nobel, nhưng tương đối đă có những tiểu thuyết có giá trị dù h́nh như chưa có những tác phẩm sống măi với thời gian ! V́ việc viết và xuất bản tiểu thuyết hàm chứa ngơ cụt, đường cùng của một sự nghiệp văn chương. Thành ra có những dấn thân như ảo tưởng v́ cứ hăng liên tục khi không c̣n băi chiến trường,... kỷ niệm trở nên mệt mỏi, văn chương giật lùi. Tiểu thuyết nhiều hay nhà văn nhiều? Có thể nói, thợ văn nhiều hơn người làm văn chương và có người càng viết càng ra khỏi văn học sử, hoặc v́ không biết ngưng đúng lúc, hoặc quá tự tin và tháp ngà. Chân thật có thể c̣n nhưng tài năng và kỹ thuật không thích hợp hoặc không cảm được người đọc? Cái chết của Nhất Linh phải chăng có phần lỗi của sự nghiệp văn chương ? Cũng có khi viết nhiều nhưng cái cuối cùng mới đáng để ư hơn, phải chăng cũng là vấn đề kỹ thuật?

M. Kundera từng định nghĩa : "tiểu thuyết là một thể loại quan trọng của tản văn mà tác giả nghiên cứu, quan sát tới cùng những đề tài của hiện hữu, qua những nhân vật tức những cái tôi thử nghiệm" (39). Nhà văn trở thành một người khai phá không ngưng nghỉ, kiếm t́m qua thể loại lựa chọn đó, vén màn cho được những bí mật, giải tỏa cho được những hàm hồ, bí ẩn của tâm hồn con người, qua những khả thể của tiểu thuyết, của giả tưởng - tức hiện sinh. Nhà văn có thể không điều nghiên thực tại mà chỉ nhắm cái hiện sinh! Y đi t́m cái bí ẩn của cái Tôi. Tiểu thuyết trở thành một loại túi khôn đầy vui và khôi hài là hai yếu tố đồng thiết yếu cho thể loại này.

 Hiện tượng tự truyện

Ngay từ đầu thế kỷ XX đă có tự truyện với cuốn đầu tiên là Chồn Cáo Tự Sự của Michel Tính xuất bản năm 1910 tại Sài G̣n. Sau đó là Nguyên Hồng với Những Ngày Thơ Ấu (1938) và Thiết Can với Dă Tràng (1939). Người Nhật vốn có truyền thống trân quư thể loại tự truyện, nhật kư, du kư. Từ thời Hezan thế kỷ XII đă phát triển với những tự truyện của các samourai là những người có ư thức mạnh mẽ về cái Tôi, qua họ người sau biết được đời sống ở cung điện cũng như của dân giả. Ở Việt Nam thời lịch triều, các nhà Nho thường dung truyện xưa tích cũ để gửi gấm, nói lên tâm sự và thường dung ngôi thứ ba. Nguyễn Gia Thiều mượn tâm sự cung nữ, Nguyễn Du mượn chuyện đoạn trường của nàng Kiều thời Gia Tĩnh nhà Minh bên Trung quốc để nói lên tân thanh của riêng ông. Thế kỷ XX, ít tác giả đưa cái Tôi thật vào văn chương, có chăng cũng phải văn chương hóa, tiểu thuyết hóa. Thể loại đ̣i hỏi người viết vượt được dư luận và thành thật nếu muốn thành công hấp dẫn người đọc. Những Ngày Thơ Ấu, Dă Tràng là những thí dụ điển h́nh. Tản Đà có những tập văn xuôi tự sự như Giấc Mộng Lớn kể chuyện lận đận thi cử, nợ nần, v.v. Vào giai đoạn cuối thế kỷ mới thật sự bành trướng thể loại tự truyện nhưng vẫn tương đối ít tác phẩm lớn v́ đa phần chỉ là những hồi kư nhẹ tính văn chương. Tô Hoài có bộ tự truyện gồm bốn tập Cỏ Dại, Tự Truyện, Những Gương Mặt, Cát Bụi Chân Ai xuất bản từ 1944 đến 1988 nhưng tập đầu đáng kể hơn cả! Có thể cái Tôi không đủ hấp dẫn bằng những đề tài thời sự, xă hội nóng bỏng suốt cả thế kỷ (chế độ thực dân, những phong trào chống Pháp, cách mạng, hai thế chiến rồi chiến tranh liên tục đến 1975, cuối thế kỷ là chống Cộng dưới h́nh thức mới, nhân sự mới,...), cũng như ảnh hưởng đời sống mới với truyền h́nh, phim ảnh,... Cái Tôi vẫn c̣n đây nhưng phần Tôi cao cả (tôn giáo, chính trị) hư hao mất. Cái Tôi vào cuối thế kỷ là cái Tôi của sự thật, là công cụ cho sự thật dù có sự thật mất ḷng, đau ḷng... như phản bội, đĩ điếm, loạn luân,... Muốn đụng tới sự thật, làm nhân chứng, tự truyện, động tác kể truyện trở thành thú tội với người đọc, một hành động can đảm, thành thật. Một cái Tôi loại mới. Thế Uyên trong Không Một Ṿng Hoa Cho Người Chiến Bại (1999) có nhiều tính tự truyện khi viết lại những t́nh cảm, bản năng bên cạnh những ư thức, tư duy văn hóa của những nhân vật có nhiệt huyết phản kháng những hư nát và dấn thân đổi mới xă hội

Nhiều nhà văn Việt Nam đă mở đầu sự nghiệp với những tác phẩm mang tính tự thuật, lấy đời sống và kinh nghiệm bản thân làm chất liệu, rồi với thời gian tính chất này sẽ loăng dần, như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Duyên Anh, Thanh Tâm Tuyền,.. . Lâm Chương trong một phỏng vấn trên tạp chí Văn Học đă cho biết: "Tôi thường viết tự truyện, phần hư cấu rất ít. Chỉ viết những ǵ đă trải qua, và đă có kinh nghiệm. Không có kinh nghiệm, mà viết theo tưởng tượng hoặc nghe người khác kể, thường là sai bét cả..."(40). Đây là phát ngôn viên cho trường phái tiểu thuyết Chân thiện mỹ !

Với một số tác giả, quá khứ như đối tượng của một đặt lại vấn đề cho hôm nay hay ngày mai. Tự truyện là văn bản bám vào hiện thực; người viết truyện kể lại như sống lại quá khứ qua tâm tưởng và kư ức, cảm tính hay ư thức. Tự truyện tức kể lể chuyện cũ, chuyện đă xảy ra. Dù ǵ th́ đó là của một con người có hữu thể, thực tính, đă sống thật, truyện có khi trọng tâm chỉ ở cuộc sống cá nhân người đó, cuộc đời hoặc nhân cách con người đó. Trong tự truyện, cái Tôi này là cái Tôi văn chương, cái c̣n lại sau khi đă được văn chương gạt bỏ những b́nh thường của thường ngày. Mỗi truyện là một bản, một mảnh của tác phẩm, của người viết.

Vai tṛ của người viết ở thể loại tự sự quan trọng v́ vừa là nhân vật, nội dung, vừa là người sáng tạo. Và người viết sẽ dễ chứng tỏ thành thật khi kể chuyện thời đă qua như những tiếp nối của hiện tại, như cộng những hiện tại đó lại! Bài toán có khi kết quả ngược lại!

Có những tự sự trí thức như tác phẩm của Roland Barthes hay Jean-Paul Sartre, và có những tự sự chính trị như biết bao hồi kư ở hải ngoại, nhưng tự truyện thành công là những tự sự t́nh cảm sống động, có khi êm đềm như những gịng lưu bút, có lúc sôi xục như những cuộc t́nh sôi nổi nhiêu khê, như những biến cố trong cuộc đời! Simone de Beauvoir có lần vào cuối đời đă tâm sự với Annie Ernaux : "Mục đích chính của đời tôi có thể chỉ là để thân xác tôi, cảm xúc và tư duy tôi trở thành văn chương, có nghĩa là cái ǵ đó tri thức được và một cách tổng quát, sự hiện hữu của tôi tan biến trong tâm trí và sự sống người khác" (41).

Nếu phải phân biệt hai loại tự sự tiểu thuyết và tự sự hồi kư, th́ Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh, Câu Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Đ́nh Tấn và cả Những Ngày Thơ Ấu của Nguyên Hồng đều thuộc tự sự hồi kư, viết là để kể cái ǵ; c̣n Tháp Kư- Ức (1998) và Đêm Oakland Và Những Truyện Khác (2001) của Phùng Nguyễn ở hải ngoại có thể xếp vào loại tự sự tiểu thuyết, xử dụng cái Tôi cho mục đích tiểu thuyết.

Tiểu thuyết hóa cái Tôi, tiểu thuyết đời sống và con người tác giả; nghĩa là vay mượn dù chỉ phần nào. Tác giả chủ động trong vai người kể chuyện và là nhân vật chính - xưng "tôi" hoặc ngôi thứ ba hoặc cách khác - thể loại này Serge Doubrovsky là người tiền phong với tác phẩm Fils (1977) ghi ở trang b́a trước roman mà ở trang b́a sau lại ghi autofiction với cắt nghĩa "Autobiographie? Non... Fiction d’évènements et de faits strictement réels; si l’on veut, autofiction" (42). Doubrovsky c̣n là một nhà lư luận và phê b́nh văn chương nổi tiếng, phải chăng khi ông thử nghiệm thể loại sáng tác này (43), ông như muốn chính thức hóa khuynh hướng tự truyện (autobiographie) từng là mốt tiểu thuyết ở Âu Mỹ với Jean-Paul Sartre, Claude Simon, Simone de Beauvoir, Marguerite Duras, Philippe Solelrs, ... Dĩ nhiên, hồi kư (memoirs / mémoires) và "chuyện đời tôi" (life story) không phải là những thể loại thuần văn chương ! Ngoài ra, thể loại tiểu thuyết tự truyện vốn là một phản ứng lại khuynh hướng cấu trúc. Ở đây, nhân vật và cuộc đời hắn như được viết lại!

Tự Truyện (1997) của Đặng Phùng Quân được tŕnh bày như một "phá thể tiểu thuyết". Đối với tác giả, đây là một đóng góp, t́m kiếm cái mới để đương đầu với cuộc sống; đồng thời tác giả như đ̣i hỏi người đọc phải quên quá khứ và lên đường với hành trang mới. Theo tác giả "như tất cả cuộc đổi mới, tiểu thuyết phá thể hủy tạo mọi quy ước về ngôn ngữ, quy phạm, tu từ, phong cách, tư duy, nhân vật, thế giới, khoa học" (44). Một phá thể triết lư cũng như h́nh thức tiểu thuyết. Một kiếm t́m triết lư ở cuối một lối ṃn, một đặt lại vấn đề triết lư đối với nhân sinh, với một loại người, vai tṛ của tiểu thuyết đối với nhân sinh. Một lạc lơng có thể cần thiết đem yếu tính không vật chất trở lại với con người.

Mặt khác, chữ nghĩa hôm nay đa dạng, không biên giới, người đọc t́m thấy tự sự, tự phê của chính tác giả ngay trong tác phẩm và cả trong tác phẩm đă có lư thuyết văn chương của chính tác giả : Les Mots của Jean-Paul Sartre, Man Nương, Thiên Sứ của Phạm Thị Hoài, Tự Truyện của Đặng Phùng Quân, v.v. . Đối với Jean-Paul Sartre, sống hoặc kể chuyện sống, một trong hai, không thể là hai cùng một lúc, tuy nhiên Les Mots đă thành tự truyện với kỹ thuật tiểu thuyết!

*      

Tiểu thuyết có những hiện tượng của những giai đoạn: truyện miền Nam chung quanh 1910-30 có tính cách lục tỉnh Nam-tính thể hiện qua nếp sống mới, đất mới, văn hóa luân lư mới do chung đụng văn hóa, tiểu thuyết Tự Lực văn-đoàn hiện đại hơn, đời sống mới đô thị hoá với những chung đụng văn hóa mới cũ, Tân Dân hiện thực, tiểu thuyết lịch sử, thơ văn kháng chiến, 1954-75 lục tỉnh tính hiện đại qua tiểu thuyết Ngọc Linh, Tùng Long, Lê Xuyên, Sơn Nam, B́nh Nguyên Lộc,..., chống Cộng, chống Mỹ, "giải phóng", đề cao thiên đường Cộng sản, rồi đổi mới,... nhưng khi nào các tác giả vượt khỏi hiện tượng chung, dám đưa ra cá tính, văn chương mới độc đáo và làm cho gia tài văn học phong phú thêm ra, đó là những Hồ Biểu Chánh, Lê Hoằng Mưu, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Huy Thiệp, v.v. Những vai "anh hùng" của văn thơ chống Cộng hay chống người miền Nam không cùng chế độ đă có thể không thể thiếu cho một giai đoạn tuyên truyền và chiến tranh tâm lư, nhưng khó để lại dấu ấn văn chương với thời đại và với người đọc, nhất là ở các thế hệ sau. Vượt lên trên những khẩu hiệu nhất thời mới khả dĩ gây âm hưởng hay chấn động người đọc như những nhân vật của Nguyễn Minh Châu trong Bến Quê (1985), Mảnh Đất T́nh Yêu (1987), ông tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, người lính của Bảo Ninh, những người đàn bà goá của Dương Hướng (Bến Không Chồng), những con ma của Nguyễn Khắc Trường, ...

Tóm, văn học Việt Nam hiện đại làm nên bởi những văn nghệ sĩ có tâm hồn dân tộc, nhiều người nhận chịu ảnh hưởng các khuynh hướng ở Âu Mỹ, có người không, qua lịch sử với quá nhiều biến động khiến nền văn học đó trải dài ra với nhân loại về ư tưởng, tiếp xúc cũng như sự kiện hiện diện của người Việt ở khắp năm châu, nhưng với thời gian cái bản sắc dân tộc đa dạng ra. Lúc đầu tiểu thuyết có sứ mạng và mục đích, cho tập thể. Tiểu thuyết chính là một hiện tượng xă hội, có tính thời sự, đấu tranh. Sau thêm yếu tố giải trí, thưởng thức, từ đó nảy nở tính "văn chương", phân chia chiếu trên - chiếu dưới, sáng giá - b́nh dân!

Tiểu thuyết đă tàn, chết? Không, nếu định nghĩa tiểu thuyết là một thể loại văn chương luôn biến thể, h́nh thành - cũng như thơ. Tác phẩm sống nếu đi với thời đại và văn chương thật là văn chương lúc bị khủng hoảng!

NGUYỄN VY-KHANH

Chú-thích:

1. Nhà xuất bản J. Linage, đường Catinat, Sài G̣n. Thật ra gồm 32 trang nhưng 4 trang là tựa sách, lời giới thiệu sách cùng tác giả sẽ in, lời đề tặng bạn tác giả là Diệp Văn Cương và Tựa của tác giả. Theo nguyên bản, chữ "Truyện" như để báo tựa sách, hơn nữa in rời tựa Thầy Lazarô Phiền. Năm 1910, truyện được tái bản và nhờ đó mà Hồ Biểu Chánh được biết đến như kể lại trong hồi kư Đời Của Tôi.

2. Trích từ bản chụp lại bản in lần đầu năm 1887, tr. 4.

3. Sđd, tr. 5.

4. Trích lời tặng bạn tác giả là quận công Diệp Văn Cương viết bằng tiếng Pháp.

5. Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh Kư. Thành phố Hồ Chí Minh: Văn Học, 1993, tr 171.

6. Trích lại theo Hợp Tuyển Thơ Văn Việt Nam (1858-1920), q. 2 (Hà Nội : NXB Văn Học, 1985), tr. 377.

7. Trích theo Hợp Tuyển ... Sđd, tr. 383-384

8. Trích theo tuyển tập Khảo Về Tiểu Thuyết : Những Ư Kiến, Quan Niệm Về Tiểu Thuyết Trước 1945, (Hà Nội : NXB Hội Nhà Văn, 1996), tr. 23-24.

9. Trích theo Sđd chú 8, tr. 47-48.

10. Chúng tôi tạm xem tiểu thuyết là một thể loại, có thể ngắn, như Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản; và khi nói truyện ngắn, truyện dài là gọi theo h́nh thức tác phẩm. Tuy nhiên chưa có thống nhất cách dùng, v́ trước đây tiểu thuyết c̣n được phân biệt trường thiên và đoản thiên. Do đó có người đă gọi truyện ngắn là tiểu thuyết như Nhất Linh và Khái Hưng ở b́a tập truyện ngắn Anh Phải Sống đă ghi là "tiểu thuyết".

11. Trích từ Tuyển Tập Truyện Ngắn Việt Nam (Sài G̣n : Văn Hữu Aù Châu, 1963), tr. 27-28.

12. Tựa (tái bản). Bếp Lửa (Sài G̣n : Sáng-Tạo, 1965), tr. VII.

13. Văn CA , 51, 3-2001.

14. Phan Cự Đệ. Tiểu Thuyết Việt Nam Hiện Đại. Hà Nội : NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, 1974. Tập 1, tr. 43.

15. Phạm Thế Ngũ. Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên: Văn Học Hiện đại 1862-1945. Sài G̣n : Tác giả xb, 1963, tr. 102.

16. Nhà xuất bản Phát Toàn, Sài G̣n.

17. Tựa, trích theo Sđd ở Ùchú 8, tr. 44-45.

18. Trích theo bản in lại trong bộ Văn Chương Tự-Lực Văn-đoàn. (Thành phố Hồ Chí Minh : NXB Giáo Dục, 1999). Tập 2, tr. 1161.

19. Bốn Mươi Năm Văn Học Chiến Tranh (1957-1997) . Glendale CA : Đại Nam, 1997. 161 tr.

20. Bản chụp lại Đức Lưu Phương, Sài G̣n, 1931. Gồm 4 cuốn, 380 trang.

21. Phan Cự Đệ. Sđd. tr. 232-233.

n22. Sđd. tr. 380.

23. "Phản ánh hiện thực là chức năng hay thuộc tính của văn học ?", Văn Học, 1, 1989, tr. 3-26.

24. Văn Học, bđd, tr 12.

25. Chân Dung Và Đối Thoại. Hà Nội : Thanh Niên, 2000. Tái bản lần 14.

26. Trích từ bản in lại trong Văn Xuôi Lăng Mạn VN 1930-1945. (Hà Nội : NXB Khoa-học xă-hội, 1989). Tập 1, tr. 123.

27. Trích theo sđd chú 18, tr. 1127.

28. Sđd, tr. 399-401.

29. Số Đỏ. Trích theo Tuyển Tập Vũ Trọng Phụng, Tập 3 (Hà Nội : Văn học , 1987), Tr 186.

30. Phan Cự Đệ. Sđd tr 344.

31. "Tiểu thuyết là ǵ?". Văn Học SG, 155, 15-9-1972, tr. 6.

32. Dặm Trường. Los Angeles CA: Văn Mới, 2000, tr. 7 & 580.

33. Những Kẻ Đứng Bên Lề. Sài G̣n : Giao Điểm, 1964, Tr. 25

34. Văn (SG), 207, 197?, tr 101.

35. NXB Nguyễn Đ́nh Vượng 1972, tr. 7 và 309.

36. Văn Học, 1974, tr. 94-95.

37. Hồ Trường An phê b́nh cuốn Tuổi Nước Độc, Tin Sách 4-1966, tr. 29 & 30.

38. Cuộc T́nh Trong Ngục Thất. Sài G̣n : Nguyễn Đ́nh Vượng, 1974, tr. 152

39. L’art du roman. Paris: Gallimard, 1986!, tr. 179.

40. "Lâm Chương, ngựa hồ hí gió bắc". Văn Học CA, 156, 4-1999, tr. 163.

41. L’événement. Paris: Gallimard, 2000.

42. "Tiểu sử ư? Không ... Tiểu thuyết biến cố và sự việc hoàn toàn có thật; nếu muốn, hăy gọi là tự sự tiểu thuyết".

43. Sau thêm Un amour de soi (1982) và Le livre brisé (1989). Ông là người đầu tiên dùng từ autofiction, sau c̣n được các nhà lư thuyết văn học gọi là roman autobiographique.

44. Đặng Phùng Quân. Tự Truyện. Houston TX : NGL, 1997, tr. 119.