HỒ BIỂU CHÁNH

CÂY CẦU NỐI NHỮNG GIÁ TRỊ CỔ TRUYỀN

VỚI CON NGƯỜI HIỆN ĐẠI

Hoài Anh

Hồ Biểu Chánh là người cuối cùng viết truyện Nôm theo thể lục bát với U t́nh lục (1910). Vậy mới phải (1913), cũng là người đầu tiên viết tiểu thuyết bằng văn xuôi quốc ngữ với Ai làm được (1912) (tôi nói đầu tiên v́ những cuốn truyện ra đời trước tác phẩm Hồ Biểu Chánh c̣n mang dáng dấp truyện chí chứ không phải tiểu thuyết). Nói một cách công thức, rập khuôn theo các lịch sử văn học, th́ phải bảo ông đă từ lĩnh vực văn học b́nh dân chuyển sang văn học viết. Nhưng lối phân loại cứng nhắc như thế không thể đứng vững khi nhận xét về tác phẩm Hồ Biểu Chánh. Những truyện Nôm mang tính chất b́nh dân, ông cũng đă viết ra nó bằng ng̣i bút của một nhà nho học, c̣n những tiểu thuyết của ông vẫn mang tính chất b́nh dân, mặc dù ông chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây. Nhưng ông chỉ mượn cốt truyện của một số nhà văn Pháp như: Victor Hugo, Alexandre Dumas cha, Hector Malot, học tập kỹ thuật viết truyện sao cho truyện mang màu sắc phiêu lưu hoạt động và tính chất ly kỳ hấp dẫn, c̣n ông vẫn trung thành với khuynh hướng đạo lư và bút pháp thuật sự như trong truyện Nôm, truyện chí truyền thống, chỉ khác là bố cục, kết cấu, cách miêu tả và ngôn ngữ có phần mới mẻ hơn bắt nguồn từ những sở đắc về văn học Pháp. Gần 100 tác phẩm trong ṿng 50 năm, đều viết theo khuynh hướng và bút pháp ấy. Ông chỉ có cái băn khoăn của nhà đạo đức muốn duy tŕ nhân tâm thế đạo, mà không có cái băn khoăn của nhà nghệ sĩ muốn thể hiện nội tâm và đổi mới cách viết. B́nh dân ở quan niệm viết ǵ, viết cho ai, viết như thế nào, ông c̣n b́nh dân ở chỗ muốn cho sách ông giá rẻ để người b́nh dân có thể mua được, dù có phải in xấu cũng cam. Nhà phê b́nh Thiếu Sơn người trước nhất đă viết về Hồ Biểu Chánh trong Phê b́nh và cảo luận (1933) đă kể lại về ông: “Lần đầu tiên tôi được đọc cụ (Hồ Biểu Chánh - HA) trong một cuốn sách Quảng cáo của nhà thuốc Nhị Thiên Đường. Tôi để ư tới tiểu thuyết của cụ rồi kiếm coi ở loại sách như những truyện Tàu in xấu, để hạ bốn cắc mà luôn luôn bán dưới giá đó.

Khi tôi gặp cụ, tôi thường khuyên cụ soạn lại tất cả những tiểu thuyết của cụ cho in lại, tŕnh bày như sách của “Tự Lực Văn Đoàn”, của “Tao Đàn”. Cụ nghe ư kiến của tôi một cách chăm chú có vẻ tán thành nhưng rồi lại bỏ qua cho đến nỗi tới nay (1967) muốn đọc lại những tác phẩm của cụ cũng không biết  kiếm đâu có mà đọc”

Như vậy là Hồ Biểu Chánh không muốn in đẹp, phải bán mắc, sẽ không đến tay được những độc giả b́nh dân thân thiết của ông. Ư ấy đă được xác minh trong bài viết của Đông Hồ về sách Hồ Biểu Chánh: “Bấy giờ (1952 - HA) Hồ tiên sinh đă về quê nhà ở G̣ Công, không có một chủ nhật nào mà không có xe của các chủ báo đua nhau xuống G̣ Công thăm tiên sinh mà mua tác phẩm. Có nhà báo giàu như báo Thần Chung, anh Nam Định đă mua và trả tiền trước, chiếm sẵn một lượt năm bảy bộ, giành lấy độc quyền. Rồi đến các nhà xuất bản cũng chạy theo. Khi đó tôi đang chủ trương nhà xuất bản Bốn Phương. Trong nhà cũng có người muốn có ít tác phẩm của Hồ Biểu Chánh y như các nhà xuất bản khác để góp mặt cho đủ với đồng nghiệp. Tôi cũng chiều ư. Tôi xuống G̣ Công thăm tiên sinh và nói ư muốn của tôi. Tôi được biết, các tác phẩm của tiên sinh đă được đặt cọc trước hết rồi, t́m măi mới thấy c̣n sót lại hai bộ. Tôi cũng mua hai bộ và xuất bản. Th́ tôi thấy độc giả không hoan nghênh ǵ hết. Nhà xuất bản Bốn Phương của tôi cũng không nhờ đó mà thêm bớt chút ǵ hết. Có lẽ tác phẩm của tiên sinh đưa vào Nhà xuất bản Bốn Phương của tôi bị lạc loài chăng. Chuyện đó không quan hệ ǵ”.

Phải! Không quan hệ ǵ với một người kinh doanh sách, và chuyên bán cho những độc giả “trưởng giả”, nhưng rất quan hệ đối với độc giả b́nh dân v́ họ chỉ có thể đọc Hồ Biểu Chánh qua những cuốn sách in xấu giá rẻ và trong những trang sách feuilleton trên báo hàng ngày. Điều kỳ lạ là cái đạo lư mà Hồ Biểu Chánh rao giảng cho đến gần đây và cả mới đây (trong phong trào tái bản ồ ạt sách Hồ Biểu Chánh) vẫn được người b́nh dân đón nhận, v́ họ bắt nguồn từ đạo lư dân tộc, mang tính chất nhân dân, có cơ sở từ ngh́n đời, người ta phải bám vào cái đạo lư truyền thống đó mới thắng được làn sóng Âu hóa dồn dập tràn tới, văn hóa thực dân cũ cho đến thực dân mới. Nó vừa là sức đề kháng, vừa là phép vệ sinh tinh thần của con người Việt Nam trước bầu không khí ô nhiễm của văn minh vật chất từ trời Tây đưa lại. Điều kỳ lạ hơn nữa là người rao giảng đạo lư ấy, lại là một người từng làm Chủ quận, làm Đốc phủ sứ, làm Hội viên Hội đồng liên bang Đông Dương, giỏi tiếng Pháp được huy chương “Chevalier de la légion d’Honneur” cao quư nhất của Chính phủ Pháp, trong khi đó quan niệm đạo đức của ông lại không khác nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đ́nh Chiểu, giống Nguyễn Đ́nh Chiểu ở nếp sống thanh bạch, có lẽ đó là sự hun đúc của tinh thần đạo nghĩa phương Đông. Nhà văn Đoàn Giỏi đă tả ngôi nhà của Hồ Biểu Chánh ở Vĩnh Hội năm 1943 như sau: “Một ngôi nhà ngói vách ván, ba căn hai chái có hàng rào gỗ và hàng ba cột gỗ vuông. Trước sân bày nhiều chậu kiểng lớn trồng cau đỏ, cau vàng, cần thăng, kim quít... Mới tới lần đầu sao mà trông thân thuộc quá. Đúng rồi, đây là h́nh ảnh những ngôi nhà trung lưu kiểu xưa, tôi thường bắt gặp trong các tiểu thuyết của ông”. Đến cuối đời ông vẫn nghèo và phải sống bằng nghề viết văn, điều đó đủ chứng tỏ đức liêm khiết của ông khi c̣n tại chức.

Điều kỳ lạ nữa là người thích văn chương Pháp thường chịu ảnh hưởng cho đến tận cùng, đằng này Hồ Biểu Chánh chỉ vay mượn cốt truyện và học tập kỹ xảo ở vài nhà tiểu thuyết Pháp thế kỷ 19 trong giai đoạn mới bắt đầu cầm bút rồi sau đó dường như ông không hề theo dơi sự tiến triển của văn chương Pháp thế kỷ 20, cũng như sự ra đời của nền văn học hiện đại Việt Nam. Tôi có cảm tưởng ông không quan tâm ǵ đến André Gide chẳng hạn, tác giả cuốn Kẻ vô luânKẻ làm bạc giả, chủ trương tự do vô giới hạn, bất chấp đạo đức cũ, cho rằng “với những t́nh cảm đẹp người ta làm ra thứ văn chương dở” hay một Jean Paul Satre, tác giả cuốn Buồn nônGuồng máy, chủ trương thuyết hiện sinh, sống cho hiện tại không quan tâm đến quá khứ và trong tương lai, mà người ta không ngớt làm ầm ỉ chung quanh ông. Ông vẫn ung dung thích thang với phong thái một nhà hiền triết đem những bài học luân lư của quá khứ để nhắc nhở hiện tại và tưởng nhớ tương lai, khuyên con người phải biết “V́ nghĩa v́ t́nh”, nhớ đến “Cha con nghĩa nặng”, bởi mang “ Nặng gánh cang thường”, khen người “Trọn nghĩa vẹn t́nh” v́ “Đại nghĩa diệt thân”, thương kẻ “Một đời tài sắc” mà “Chút phận linh đinh”, căm ghét “Nhơn t́nh ấm lạnh”, chạy theo “Tiền bạc bạc tiền”, để đến nỗi “Kẻ làm người chịu”, thấy thân phận con người trong xă hội kim tiền chẳng khác chi “Ngọn cỏ gió đùa” ông càng “Cay đắng mùi đời” trước bao điều “Thiệt giả giả thiệt” nên ông “Tỉnh mộng”, ngoài tuy “Cười gượng” nhưng trong “Khóc thầm”. Khuynh hướng đạo lư bộc lộ ngay ra ở nhan đề tác phẩm, không hề e ngại ở chỗ nó làm giảm giá trị nghệ thuật, do ông đă có một mục đích, một lư tưởng viết văn mà ông quyết tâm theo đuổi đến cùng. Một trong những truyện ông phóng tác là cuốn “Chúa tàu Kim Quy”, phỏng theo tiểu thuyết Bá tước đảo Monte Cristo của Alexandre Dumas cha. Có thể đọc lời nhận xét Bá tước đảo Monte Cristo của nhà văn Ư Umberto Eco (tác giả cuốn tiểu thuyết Tên của đóa hồng qua đó tŕnh bày Hiện tượng luận), ta sẽ hiểu về văn phong của Dumas cha và cả của Hồ Biểu Chánh như thế nào: “Tôi đă cố dịch “Bá tước đảo Monte Cristo” hơn trăm trang. Rồi tôi đành đầu hàng. Tôi đầu hàng v́ tôi hiểu rằng tôi c̣n phải tiếp tục với hai ngàn trang và cũng v́ tôi tự hỏi phải chăng những h́nh thức dài ḍng, sự tầm thường và những chỗ rườm rà vốn là một bộ phận của cái máy kể chuyện?”

Đến lúc này, một vài nghi vấn băn khoăn nảy sinh ra. Nếu Dumas được trả tiền không phải tính theo ḍng có thêm, mà lại tính theo ḍng bớt đi, nếu ông rút ngắn lại, th́ liệu “Bá tước đảo Monte Cristo” có c̣n là cái máng lăng mạn điều kỳ nữa không? Nếu có được rút gọn lại, nếu sự kết án, cuộc chạy trốn, việc t́m ra kho báu, việc trở lại Paris, sự trả thù hay đúng hơn là những cuộc trả thù dây chuyền, chỉ được qua một khoảng độ 200 hay 300 trang, th́ tác phẩm c̣n có tác dụng như nó vốn có, nó có thành công trong việc lôi kéo chúng ta, cả những lúc v́ nóng ḷng muốn biết, ta đă bỏ qua nhiều trang và nhiều chỗ miêu tả không? (Ta bỏ qua chúng, nhưng ta biết rằng chúng tồn tại ở đó, ta đi nhanh lên một cách chủ quan trong khi vẫn biết rằng cái th́ giờ kể chuyện đă được giản ra một cách khách quan! Thế là ta khám phá ra rằng những thái quá vô độ kinh khủng trong văn phong nổi cộm lên quá rơ, nhưng chúng có một giá trị kết cấu, như những thanh than ch́ trong các ḷ phản ứng hạt nhân, chúng làm chậm lại nhịp điệu, để cho những chờ đợi của ta nhức nhối hơn, những dự kiến của ta mạnh dạn hơn. Tiểu thuyết của Dumas là một cái máy sản xuất ra sự hấp hối, ở đây không tính đến chất lượng của những hơi thở, cái đáng kể nhất là độ dài của chúng.

Ở đây, vấn đề là văn phong, nhưng văn phong kể chuyện khác với văn phong làm thơ và viết thơ. Le Grand Meaulnes của Alain Fournier được viết tốt hơn vạn lần “Bá tước đảo Monte Cristo” nó không nuôi dưỡng sức tưởng tượng tập thể với một sinh lực mạnh mẽ và một thời gian dài như thế. “Le Grand Meaulnes” chỉ là tác phẩm nghệ thuật. “Bá tước đảo Monte Cristo” trái lại nói với ta rằng nếu kể chuyện là một nghệ thuật th́ những quy tắc của nghệ thuật này khác với những quy tắc của các loại h́nh văn học khác”.

Những ḍng Umberto Eco viết về Dumas, lại soi sáng cho tôi khi nhận định về văn học Hồ Biểu Chánh. Nhưng cái điều mà Umberto Eco e ngại th́ Hồ Biểu Chánh lại làm nổi, ông đă rút gọn lại “Bá tước đảo Monte Cristo”, để phóng tác thành “Chúa tàu Kim Quy” tuy vẫn c̣n có những chỗ dài ḍng, rườm rà, nhưng vẫn tuân thủ nhịp điệu kể chuyện, mà không đánh mất chất lăng mạn diệu kỳ của nó, do đó nó vẫn c̣n sức thu hút nhiều thế hệ độc giả, muốn t́m trong tác phẩm một ư nghĩa tốt đẹp, cao thượng chứ không phải chỉ để chứng kiến sự dày ṿ, quằn quại của con người cá nhân chủ nghĩa ích kỷ, đạo đức giả cũng như vô luân trắng trợn, thích t́m cảm giác lạ trong “thú đau thương” cũng như trong sa đọa và bệnh hoạn.

Nói Hồ Biểu Chánh chú ư đến phương tiện đạo đức, không phải là nói ông không có nghệ thuật. Từ 1933 Thiếu Sơn đă nhận xét: “Truyện thường xảy ra, hoặc có thể xảy ra ở xă hội, nhà tiểu thuyết cứ việc lấy tài liệu mà viết sách cho ta coi, nào có khó ǵ?

Cái khó là câu chuyện phải sao cho có lư, lời thuật phải sao cho gọn gàng, cái cơ mưu phải sao cho tự nhiên, cách kết cấu phải sao cho ư vị. Và những người trong truyện, mỗi người một tính cách riêng, th́ lại phải một nét vẻ riêng, vẻ từ điệu đi, tướng đứng, vẻ từ câu nói, tiếng cười, vẻ cái hành động ở ngoài, sao cho nó hợp với cái tâm lư ở trong, vẻ cái hoàn cảnh phụ cận sao cho nó giải nghĩa được cái sinh hoạt của người.

Ông Hồ Biểu Chánh chẳng những đă biết do sự quan sát mà sáng tạo ra được những nhân vật đúng với cái khuôn mẫu người đời biết, cho những nhân vật đó sống theo với cái tính cách riêng, cái thái độ riêng, trong những hoàn cảnh riêng của họ. Mà ông lại c̣n khéo cho những nhân vật đó, hiệp thành một xă hội gần giống như xă hội của ta, cho kẻ giàu gặp kẻ nghèo, người nghèo đụng người sang, kẻ gian hùng quỷ quyệt với bậc nữ sĩ anh hào, vị giai nhân tài nữ với kẻ vô học phàm phu, v́ những xung đột về danh, về lợi, về tư tưởng, tánh t́nh, về tinh thần khí tiết mà quay cuồng vật lộn, mà chiến đấu cạnh tranh, gây nên cái vẻ hoạt động trong đời, cho độc giả được thỏa ḷng quan sát”.

Đời công chức không những  không cản trở nổi đời viết văn của Hồ Biểu Chánh, trái lại, c̣n giúp ích cho ông v́ công vụ ông phải luân chuyển khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ, sang cả Campuchia, đó là dịp rất tốt để ông tha hồ quan sát và thu thập tài liệu về miền đất này như trong một viện bảo tàng nhân học.

Tác phẩm Hồ Biểu Chánh có hàng ngàn nhân vật gồm đủ: bác vật, quan thầy y sĩ, tấn sĩ, cử nhân tú tài, nữ sinh Nữ học đường hoặc Nhà Trắng, cai tổng tri phủ, hội đồng, thông ngôn, kư lục, tùy phái ở thành thị, hương cả, hương chủ, hương tuần[1], hương quản ở nông thôn, thợ thuyền lao động đất Hộ, chợ Chí Ḥa, chợ Xă Tài, dân cày, dân lưới, tá thổ, tá điền, Chà và chetty: Khách chú lấy vợ Nam, Thổ Miên làm rẫy, Tây (như Lo-co trong Mẹ ghẻ con ghẻ) ngoài nhân vật đương thời lại có những nhân vật thời Tây Sơn và đầu Nguyễn Lê (Lê Văn Đó trong Ngọn cỏ gió đùa, Đỗ Thành Nhân trong Đỗ nương nương báo oán, Lê Tấn Nghĩa trong Chúa tàu Kim Quy). Cảnh th́  từ ngôi nhà bánh ếch, trước nhà có vườn kiểng  nào là bùm sụm, kim quít, cam kiểng bàn thờ cẩn ốc xà cừ, lẫm lúa chứa hàng muôn giạ ở quê, đến xe kéo, xe kiếng, người gánh gánh cá ra đón xe lửa G̣ Vấp mà đi qua chợ Bến Thành xuống cầu Ông Lănh, người đánh xe thổ mộ ở chợ Gạo thỉnh thoảng thọc cán roi cho cái căm xe nó đánh nghe lộc cộc.

Mỗi loại nhân vật lại có một kiểu y phục khác nhau: các thầy già th́ bịt khăn đen, trẻ th́ đội nón, song người nào cũng mặc áo dài, mang giày Tây, nơi cánh tay lại có máng một cây dù hoặc đen hoặc trắng. Hương quản, bồi bái th́ áo Quảng Đông lụa tam công, quần lănh đen mới, đầu trần mà có đầu tóc, tay cầm một cây dù máy vải đen, chân mang một đôi giày hàm ếch da láng, râu le the mấy sợi, miệng ngậm trầu bô bô... Cô Hai th́ mặc áo Thượng Hải màu da trời bông b́nh bạc, bận quần cẩm nhung trắng may lưng màu đọt chuối, đầu đội khăn màu trứng gà, cổ đeo một sợi dây chuyền nhỏ mà Mề-đay-dông nhận hột xoàn lớn, bàn tay trái đeo một bộ cà rá, cườm tay mặt đeo chiếc ṿng nhận hột xoàn, một tay xách bóp, một tay cầm khăn mù soa.

Mỗi loại nhân vật có một tính cách, tâm lư tất cả đều hoàn toàn Việt Nam: bà phủ hai trong Ai làm được đă tráo thuốc độc giết bà vợ cả mẹ Bạch Tuyết, lại xúi chồng ép gả Bạch Tuyết cho cháu ruột mụ để hưởng trọn gia tài. Thông Lợi trong Cay đắng mùi đời, toa rập với vợ bé của anh bắt trộm con của bà lớn để dễ bề đoạt gia tài. Phùng Xuân trong Kẻ làm người chịu,dùng tiền của vợ trang trải nợ nần do cờ bạc, hút xách, đĩ điếm, sau khi biết vợ ḿnh không c̣n yêu nữa th́ lại bắt chẹt vợ không cho ly dị, cốt để làm tiền. Phục trong Nợ đời lợi dụng sắc đẹp, chà đạp lên những kẻ quỳ lụy trước nhan sắc của ḿnh mà từng bước bước lên nấc thang tiền tài danh vọng . Cô Đằng trong Dây oan có chồng rồi lại tằng tịu với người t́nh cũ... Bên cạnh những kẻ bạc ác, xấu xa có những người lương thiện, chung thủy như Bạch Tuyết trong Ai làm được là thân gái mà cương quyết ra đi, phiêu dạt để cố xây dựng sự nghiệp cho Chí Đại, người yêu nàng. Thu Vân trong Chút phận linh đinh cho chồng đi du học Pháp để lập nghiệp, khi nghe tin chồng chết v́ đắm tàu, nàng buồn phiền toan tự vẫn chết theo chồng cho trọn nghĩa. Thằng Tư và con Quyên trong Cha con nghĩa nặng, khi thấy cha vượt ngục trở về, không những đă không sợ liên lụy và c̣n cứu cha cho khỏi án cũ để cha con đoàn tụ vui vẻ. Kỳ Tâm trong Tỉnh mộng nhận đóng vai chồng hờ của Yến Tuyết nên bị nàng khinh rẻ v́ lầm tưởng chàng tham tiền làm việc nhục nhă, nhưng sau đó chứng kiến thái độ chính nhân quân tử của chàng, nàng đem ḷng kính phục, xin đi theo hầu hạ để đền ơn chàng cứu vớt danh giá mẹ con nàng. Phan Văn Quư trong Mẹ ghẻ con ghẻ, bị người d́ ghẻ hất hủi nhưng cố gắng lập thân thành người, sau khi thành đạt lại đưa d́ ghẻ trở về con đường tốt, giúp em nên nghiệp, dùng tiền bạc vào công tác xă hội: lập cô nhi viện, cấp học bổng cho thanh niên hiếu học thành tài. Ông Cử trong tác phẩm cùng tên, bị vợ lường gạt hết gia sản, xé hôn thú rồi mang con đi lấy một người chồng có địa vị, tiền tài, ông thay tên đổi họ lên Sài G̣n giúp đỡ người nghèo, lấy đức mà khuyên răn đám dân lao động thiếu học. Người ta mang tiền ra mua chữ kư của ông vào tờ hôn thú của đứa con gái, dù nghèo ông vẫn một mực chỉ muốn biết người con rễ có xứng đáng hay không, ông từ chối sự trả ơn của người khác kể cả con gái, con rễ sau này muốn báo hiếu cho ông. Lê Văn Đó trong Ngọn cỏ gió đùa muốn cứu mẹ, chị dâu, và các cháu khỏi chết đói mà đi ăn trộm một tră cám heo, bị tù đày khổ cực gian truân nhưng sau khi măn hạn tù vẫn mang tâm thiện ra giúp đỡ người khác bằng cách mở trường học, lập nhà dưỡng bệnh, nhà nuôi trẻ mồ côi và những người già yếu tật nguyền, lại nuôi dạy và gây dựng cho con gái của Ánh Nguyệt để giữ tṛn lời hứa với cô khi cô nhắm mắt. Tất Đắc trong Từ hôn, lúc đầu coi việc cưới cô Bạch Tuyết như một kế sinh nhai, sau thấy mẹ cô hết ḷng thương chàng, cô thành thật yêu chàng và chàng cũng thành thật yêu cô, nên hổ thẹn về sự giả dối của ḿnh viết thư từ hôn rồi bỏ ra đi....

Những cốt truyện và tính cách, tâm lư nhân vật nói trên, chỉ là cái cớ để dẫn đến chủ đích luân lư của tác phẩm, thiện bao giờ cũng thắng ác, kẻ làm lành làm phải sau bao nhiêu gian truân khổ ải đều được đền bồi, người hàm oan được thoát tội, kẻ làm ác phải sống nhục chết thảm, đó chỉ là một cây cầu dẫn người đọc đến với tấm ḷng người viết. Bản thân Hồ Biểu Chánh đă đóng trọn vai tṛ một cây cầu: bắc ngang văn học cổ với văn học hiện đại, bắc ngang những giá trị tinh thần truyền thống với con người trong xă hội văn minh vật chất. Thái độ của chúng ta không phải là qua cầu rút ván, mà là qua cầu ngả nón trông cầu, cầu bao nhiêu nhịp... đánh giá hết những đóng góp của Hồ Biểu Chánh vào sự nghiệp văn học của dân tộc                                                                        (Trích Văn số 40)

------------------------------------------------

Nguồn :  Phê b́nh b́nh luận văn học”- Nxb Tp. Hồ Chí Minh- 1998

 

©2006 hobieuchanh.com

 

 



[1] Cai tuần ( ?) BBT