Đời sống văn hoá ở nông thôn Nam
bộ
trong
một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
- Huỳnh Thị Lan Phương -
1. “ Nam bộ”, một cách
gọi nghe thật thân thương quen thuộc. Nhưng nó có từ lúc nào? Có
lẽ ít ai chú ư đến điều này. Thời Gia Long, nước ta được chia
làm ba khu vực, gồm có Bắc thành, Kinh thành và Gia
Định thành. Về sau, năm 1834, Minh Mạng
đặt tên mới là “kỳ”,
bao gồm Nam kỳ, Bắc kỳ, Kinh kỳ và Trung
kỳ. Nam Kỳ có sáu tỉnh nên thường
được gọi là “lục
tỉnh Nam
kỳ”. Khi Pháp chiếm Nam kỳ,
vẫn duy tŕ tên gọi cũ, tách ra thành nhiều tỉnh
(21 tỉnh). Mặc dù không chỉ là sáu
tỉnh nhưng nhân dân ta vẫn quen gọi Nam kỳ là
lục tỉnh. Thế nhưng nói đi
lục tỉnh lại có nghĩa là đi về miền
Tây. Trong suy nghĩ của người
dân, lục tỉnh là vùng đất phía tây Nam của
Tổ quốc. Từ tháng 5 năm 1945 mới bắt
đầu xuất hiện từ “bộ”, thay thế cho từ “kỳ”. Như thế Nam bộ được hiểu là Nam kỳ
trước đó.
Nam bộ vốn là vùng đất mới. Lưu dân vào Nam
lập nghiệp thường bỏ lại phía sau tất
cả những tập tục, thói quen trong mọi sinh
hoạt. Dù đến một xứ sở “lạ lùng”, con người khi
đă quen với cuộc sống mới th́ cũng dần
dần h́nh thành nên những tập tục, lối sống
mới sao cho phù hợp với điều kiện tự
nhiên, xă hội hiện có. Viết về nông thôn Nam bộ,
có lẽ Hồ Biểu Chánh không chú ư thể hiện
đời sống văn hoá nhưng ng̣i bút tả chân
của ông đă không bỏ sót một vấn đề nào
của hiện thực xă hội đương thời. Nhờ vậy, một số nét văn hoá “miệt vườn” từng
h́nh thành và phổ biến trên vùng đất Nam bộ
được tái hiện trong tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh. Hơn thế, Hồ Biểu Chánh c̣n
kịp thời nhận ra sự giằng co quyết
liệt giữa hai lối sống cũ và mới do
chịu ảnh hưởng của hai nền văn hoá
phương Đông và phương Tây đang diễn ra
ở Nam
bộ vào những năm đầu thế kỉ XX.
2. Đồng bằng Nam bộ
chằng chịt những sông ng̣i, kênh rạch. Nơi đây đất thấp, có nhiều śnh
lầy, dừa nước mọc ven sông rất nhiều.
Người dân Nam
bộ có thói quen làm nhà dọc theo hai bên
sông, chất liệu được lấy từ cây lá có
sẵn. Nhà lá rất phổ biến ở
đồng bằng sông Cửu Long trước đây,
nhất là ở nông thôn. Chất liệu đơn
sơ nhưng qua bàn tay lao động
khéo léo của con người, nhà lá vẫn mang những nét
“đặc thù” thể
hiện lối “kiến trúc
miệt vườn”: “... Nhà
ba căn, cột bằng cây bần, nóc lợp lá xé, cửa
cặp lá chằm, vách gài bằng tre, trước sân
một bên vắt một đống rơm, một bên
trồng một cây me, sau hè chuối lá xiêm xơ rơ ít
bụi, mía xanh dịu lố xố mấy giồng. Cái nhà đó là nhà Cai tuần Bưởi” (Con nhà
nghèo, trang 7). Trong “Cha con nghĩa nặng”, tác giả một lần
nữa giới thiệu đến người đọc
ngôi “nhà lá ba căn xịch
xạc” của anh nông dân Trần Văn Sửu, tất
cả đều gợi lên đời sống ở
một xứ nông nghiệp.
Nói về trang phục của
người Nam
bộ thời này, Hồ Biểu Chánh tỏ ra có sự quan
sát rất cẩn thận. Ông thường
miêu tả tỉ mỉ trang phục của các nhân vật.
Người giàu thường ăn
mặc như cô Ba Nhân (Con nhà
nghèo): “mặc áo lụa
trắng, quần lănh đen, đầu đội khăn
màu bông hường, chân đi giày thêu nhung đỏ...” (trang 178). Một người đứng
tuổi như ông Chánh Bái (Tại
tôi) lại có cách ăn mặc trang trọng hơn: “Ông mặc một cái áo xuyến
đen dài, vai vắt khăn bàn lông, chân mang giày hàm ếch”
(trang 3). Hương hào Hội (Cha
con nghĩa
nặng), một kẻ giàu có háo sắc, đến nhà
tá điền để làm chuyện bất chính trong
bộ y phục “áo vải
trắng, quần lănh đen” (trang 39). Anh nông dân Trần
Văn Sửu, một ḷng yêu thương vợ, mơ
ước có nhiều tiền để có được
cuộc sống đầy đủ như mọi
người “bận quần
hàng áo nhiễu đi giày đi dép...” (trang
43). Đôi nét mờ nhạt, nhưng những chi tiết
nêu trên đă gợi lên h́nh ảnh của cuộc sống
lặng lẽ, khép kín ở nông thôn Nam bộ, một
cuộc sống gắn liền với nền văn hoá
vật chất của vùng đồng bằng sông
nước, chuyên nghề trồng lúa.
Nam bộ
đất đai ph́ nhiêu, tôm cá cũng
dồi dào, ăn không hết mà không thể bán nên
người dân nghĩ cách làm mắm để ăn
dần. Nhà nào thường cũng có mắm
dự trữ quanh năm. Từ đó có thói quen “ăn mặn uống đậm” và
người Nam
bộ c̣n đúc kết thành một kinh nghiệm: “Ăn cơm mắm, thấm
về lâu”. Viết về cuộc sống ở vùng
đất phương Nam mà không đề cập
đến vấn đề này là bỏ qua một nét
văn hoá “ẩm thực”
đặc sắc mang sắc thái “miệt vườn”. Trong tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh, nét văn hoá ấy từng hiện
diện trong nhiều tác phẩm, dù nhạt nhoà nhưng
đó vẫn là những chấm phá độc đáo làm cho
bức tranh nông thôn tăng thêm phần sinh động,
gần gũi. Nông dân đi làm đồng thường mang
cơm gói để ăn trưa,
thức ăn thiệt đơn giản nhưng
đậm đà hương vị đồng quê: mắm
sống. Tác phẩm “Cha con nghĩa nặng” đă gợi đến chi
tiết này. Anh Trần Văn Sửu gặt xong
một công lúa, leo lên bờ ngồi
nghỉ “phành gói cơm ra mà
ăn. Một tay cầm con mắm
sặc, một tay bốc cơm nguội, trên đầu
trời nắng, dưới chơn lấm bùn mà anh ta
ăn cơm coi bộ ngon lắm. Ăn hết cơm rồi,
bèn bước lại cái vũng gần đó bụm tay múc
nước mà uống...”. Những lúc
có việc phải đi xa, lương thực mang theo dọc đường cũng là cơm
nắm với mắm sống. Bà Thủ Thành (Chúa tàu Kim Quy) chuẩn bị
thức ăn mang theo cho chồng
để lên huyện: “Cơm
chín rồi bèn vắt làm hai vắt, giở hũ mắm móc
vài con mắm sặc, lấy lá chuối gói lại rồi
trao cho chồng xách lên huyện...” (trang
25). Bất ngờ có khách ghé nhà, sống
giữa đồng hoang sông vắng, lấy ǵ để
thết khách? Mắm lại là món ăn
duy nhất, quư nhất mà người nông dân có thể
sẵn sàng để tiếp khách. Sau khi thoát
khỏi nhà ngục, vượt qua một chặng
đường rừng hoang vắng, Thủ Nghĩa (Chúa tàu Kim Quy) gặp
được nhà của một bà lăo nông dân. Nghe nói Thủ Nghĩa đă qua mấy ngày đói
khát, bà “lật đật vô
buồng bưng rá cơm nguội ra th́ c̣n được
vài chén, bèn để trên sập rồi trở vô móc ít con
mắm lóc nhỏ đem ra cho Thủ Nghĩa ăn.”
(Trang 44) Ăn cá mắm là thói quen
được h́nh thành do môi trường tự nhiên ở
Nam
bộ. Người nông dân đă tận
dụng lương thực có sẵn để tạo nên
nguồn dinh dưỡng, ngon bổ tiện lợi. Cứ thế mà bao lớp người đến
đây đều có thói quen như thế, dần dần
tạo nên một nét văn hoá miệt vườn và sông
nước.
Đă từ lâu,
đất Nam
bộ được xem là nơi giàu của cải
nhưng nghèo chữ nghĩa. Từ
thời mở đất lưu dân đa phần là ít
học và nghèo nàn. Bởi cái lo
trước mắt là cái ăn, cái mặc c̣n học hành thi
cử là chuyện quá xa vời. Hơn
nữa, điều kiện học hành rất khó khăn,
và học làm ǵ ở vùng đất xa kinh thành, nơi “khỉ ho c̣ gáy” này. Thời bấy giờ vẫn c̣n quan niệm
học để làm quan mà cái nh́n của người dân
đối với quan lại đầy thành kiến và
đối lập. Người dân
lại thường có tâm trạng mặc cảm tự ti
“Gối rơm theo phận
gối rơm”. V́ vậy, họ thích làm ăn sinh lợi hơn là học. Qua tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh chúng ta cũng bắt gặp
tâm lí này ở nhiều nhân vật kể cả những
nhân vật nhà giàu, có tiền của, đủ điều
kiện vẫn không thích cho con học nhiều, tiêu biểu
là cha mẹ của Bác Ái
(Một chữ t́nh) Họ không muốn cho học cao
hơn nữa “Đi Tây làm ǵ?
Thi đậu rồi, thôi đi cưới vợ mà làm
ăn. Như có muốn làm việc quan th́
đi, bằng không th́ ở nhà coi làm ruộng cũng
được” (trang 20).
Chính v́ thế mà đến giữa thế
kỉ XIX sĩ phu Nam
bộ chẳng được bao người, Thế
nhưng chớ vội nghĩ họ là những
người chỉ biết cầu tiền mà không cầu
tiến. Chẳng qua họ không có
điều kiện và cái lo trước mắt chính là
chuyện “cơm áo gạo
tiền”. Qua “Thầy
thông ngôn” hay “Con nhà nghèo”,
Hồ Biểu Chánh đă cho thấy những gia đ́nh khá
giả hoặc có tư tưởng cầu tiến cũng
tạo điều kiện cho con ăn
học để được thành đạt. Những thanh niên có
chút học vấn, dù chỉ làm thông ngôn hay được
nhậm chức quan kinh lư như Thầy Thông Phong hoặc
Kinh lư Hai đều được mọi người
trong làng ngưỡng mộ, tấm tắc ngợi khen.
Tuy nhiên, nh́n chung nông thôn Nam bộ
trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh vẫn c̣n ch́m
ngập trong bóng tối của sự dốt nát. Không có bóng dáng của trường học kể
cả trường làng. Không có h́nh
ảnh của thầy giáo dạy học, kể cả
thầy đồ. Trẻ thơ chưa
được cắp sách đến trường.
Những đứa trẻ như Tí, Quyên, thằng Mau,
thằng Được... đă phải
vật lộn với chuyện mưu sinh từ thuở
nhỏ.
Nông thôn Nam bộ không chịu
ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo
một cách nặng nề như nông thôn Bắc bộ hay
Trung bộ. Nơi đây ít có những hủ
tục lâu đời. Do đó, người
đọc không hề bắt gặp cảnh phạt
vạ được nói tới trong “Bỉ vỏ” của Nguyên Hồng hay đám
kiện cáo, ẩu đả v́ tranh giành ngôi thứ giữa
đ́nh làng như trong “Việc
làng” của Ngô Tất Tố. Tuy nhiên, ng̣i bút sắc
nhọn của ông đă tập trung phanh phui nhiều
mặt tiêu cực trong lối sống, tập tục
của người dân Nam bộ. Nam bộ không phải là
thánh địa của Nho giáo, cho nên cuộc đời
của người phụ nữ ít bị ràng buộc
một cách phi lí vào những lễ nghi phép tắc. Thế nhưng, chế độ đa thê và hôn
nhân áp đặt được phổ biến ở nông
thôn thời bấy giờ cũng đủ sức phá
hoại hạnh phúc của bao người, đem
đến không ít bi kịch cho người phụ nữ.
Qua “Cay đắng mùi
đời”, “Nợ đời”, “Thầy Thông ngôn”,
“Cười gượng”, “Con nhà nghèo”... chúng ta nhận
thấy quan niệm cổ hủ, lạc hậu về hôn
nhân đang hoành hành cuộc sống ở nông thôn Nam bộ
không ít. Chế độ đa thê đă
dẫn đến quan hệ vợ cả, vợ lẽ
trong đại gia đ́nh. Hệ quả
tất yếu của nó là sự nảy sinh tính ích kỉ,
đố kị thôi thúc con người làm nhiều
điều bất nhân thất đức. Có những
người sinh ra lắm thủ đoạn, mưu mô
độc ác như người vợ lẽ trong tác
phẩm “Cay đắng mùi
đời”, v́ ghen ghét vợ cả, mong muốn
chiếm trọn gia tài nhà chồng, đă nhẫn tâm mang
một đứa bé ngây thơ c̣n đỏ hỏn vứt
đi chỉ v́ nó là con bà vợ cả. Để
được vị trí xứng đáng trong đại gia
đ́nh, có những người vợ lẽ tán tận
lương tâm đến mức đem tráo con cho
người khác để được con trai (vợ
lẽ của Cai tổng Luông trong tác phẩm “Nợ đời”), mặc
cho tương lai của con ruột do ḿnh đẻ ra
thế nào cũng được.
Trong bức tranh chung
về cuộc sống gia đ́nh, Hồ Biểu Chánh
đặc biệt nói đến những cuộc hôn nhân áp
đặt, vụ lợi. Đó là hôn nhân
dưới h́nh thức gả bán, đổi chác, hoàn toàn chỉ
dựa vào tiền bạc, công danh, địa vị.
Thầy thông Phong (Thầy thông
ngôn) cưới cô Hồng Như Hoa chẳng qua v́ gia tài
và danh giá của gia đ́nh ông Cai tổng
Luông. Việc làm ấy là kết quả
của lối giáo dục phi đạo đức từ
phía cha mẹ anh ta. Bà Hương sư từng ân cần dặn con trước lúc đi xa “Xuống Cà Mau con cứ làm quen
với hàng phủ, huyện hoặc cai phó tổng; hễ
con thấy ông nào có con gái th́ con phải rán làm cho ổng
thương đặng ổng gả con cho.” (trang 17). Đồng tiền đă chi phối
hôn nhân với một sức mạnh không nhỏ, nếu
không muốn nói là ghê gớm. V́ tiền mà mẹ con bà
Cả Hoàng và cậu tú tài Tô Hồng Xương đă
bất chấp cương thường đạo lí, ruồng
bỏ, xua đuổi gia đ́nh Hảo, giữa
lúc Hảo đang bụng mang dạ chửa. Khiến
mẹ con Hảo phải khổ sở trăm điều.
Hiện thực
được miêu tả trong tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh đă gợi lên cho người đọc
sự liên tưởng đến không khí căng thẳng
trong các gia đ́nh người dân Nam bộ thời này. Khi mà cha mẹ vẫn luôn muốn thể hiện
quyền uy tối cao của ḿnh trong gia đ́nh. Con cái
có bổn phận phải chấp nhận sự
định đoạt của cha mẹ nhất là
chuyện hôn nhân. Bà cả Kim (Tại
tôi) đă từ đứa con trai duy nhất và yêu
thương nhất của ḿnh v́ đă dám tự ư
quyết định chuyện hôn nhân để rồi
đôi vợ chồng trẻ ấy phải rơi vào
bế tắc, chết oan uổng, bỏ lại con thơ
bơ vơ không người thân nương tựa. Tất cả những hiện thực trên
xuất phát từ quan niệm sống cổ hủ của
người phương Đông. Hôn nhân
không nhất thiết phải có t́nh yêu thật sự.
Sự vừa ḷng của cha mẹ, thuận ư
của họ tộc là trên hết. Dần dần
điều này đă dẫn đến thói quen mang tính
chất tiêu cực: “Cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy”. Quan
niệm ấy vẫn được tồn tại ở Nam bộ,
nhất là ở nông thôn vào những năm đầu
thế kỉ XX và kéo dài rất lâu về sau này.
Những người theo tân học, có
tư tưởng phóng khoáng, thích tự do thế mà vẫn
chấp nhận “tập
tục” ấy. Không phải ngẫu nhiên Hồ Biểu
Chánh để cho Kinh lí Hai thốt ra những lời chân
thành nhất với cha mẹ lại là: “Áo mặc sao qua khỏi đầu, bề nào con
cũng chờ lệnh cha với má” (trang 323). Hồ Biểu Chánh không có dụng ư tấn công vào
thành luỹ của chế độ đại gia đ́nh.
Ông cũng không chủ trương đấu tranh đ̣i
quyền tự do trong t́nh yêu hay thể hiện khát vọng
của tuổi trẻ. Ông chỉ phê phán
mặt tiêu cực, mặt hạn chế của quan
niệm, lối sống vốn h́nh thành từ lâu trong các
gia đ́nh người dân Nam bộ. Quan niệm này của Hồ Biểu Chánh
được duy tŕ trong suốt cuộc đời
viết văn của ông. Kể cả lúc tiểu
thuyết “Tự lực
văn đoàn” ra đời, mọi vấn đề
từ t́nh yêu tự do đến việc đấu tranh
chống lễ giáo phong kiến, chống chế độ
đại gia đ́nh đều được đưa
ra giải quyết.
Hồ Biểu
Chánh thường viết về những câu chuyện thông
gian, ngoại t́nh hay cưỡng hiếp phụ nữ
hoặc phản bội trong t́nh yêu. Có cả
chuyện ghen tuông và án mạng xảy ra
từ đó. Tấn Thân hăm hiếp Thị Xuân (Chúa tàu Kim Quy); Thị Lựu
ngoại t́nh với Hương hào Hội (Cha con nghĩa nặng); Vĩnh Thái thông gian với
vợ Hương hào Điều (Khóc thầm). Dưới cái nh́n
của Hồ Biểu Chánh đó là những hiện
tượng tất yếu nảy sinh trong xă hội có “làn sóng vô luân lí, vô giáo dục”
đang lớn mạnh thêm hoài. Đó cũng là hành vi không thể dung thứ trong quan niệm
của tác giả. Những chi tiết trên
gợi lên một bức tranh xă hội có đời
sống văn hoá chưa thể nói là phát triển. Hơn nữa, c̣n nhiều tính chất phức
tạp.
Viết về nông thôn Nam bộ vào
những năm đầu thế kỉ XX, khi đề
cập đến thực trạng văn hoá, Hồ
Biểu Chánh c̣n phản ánh sự giằng co giữa hai
lối lối sống cũ và mới đang diễn ra khá
gay gắt. Trước thế kỉ XX, nền văn hoá
Việt Nam
là nền văn hoá phong kiến mang đậm bản
sắc Đông Nam Á. Tư tưởng phương Đông
đă ăn sâu vào phong tục tập quán và tâm trí của con người.
Thế mà đầu thế kỉ XX, có sự du nhập
của văn hoá phương Tây và sự h́nh thành của
lối sống tư sản, mọi giá trị cổ
truyền của dân tộc bị thay đổi. Nhiều
nhà nho đă căm giận, tỏ ra bực tức,
muốn hét to lên v́ bất lực:
Muốn
mù trời chẳng cho mù nhỉ
Giương
mắt trông chi buổi bạc t́nh”
(Tú Xương)
Nhưng
dù căm tức, dù bực bội đến đâu họ
vẫn phải sống với nó, phải thích nghi với
nó.
Dần dần lại b́nh thường hoá trước cái
xấu, cái lố lăng của
phương Tây của xă hội tư sản. Cuối cùng,
chính những người nệ cổ nhất, những
nhà nho bảo thủ nhất cũng phải chạy theo lối sống mới, phải học
lối sống mới. Điều này
khiến cho những ai nặng t́nh với đất
nước dân tộc đều ngao ngán, không khỏi lo
lắng. Tản Đà xót xa thốt ra những lời
ảo năo: “Văn minh Đông Á trời thu
sạch
Này
lúc luân thường đảo ngược ru”
Cùng mang tâm trạng của
những trí thức có tâm huyết, Hồ Biểu Chánh
thấy rằng “cái làn sóng vô
luân lí, vô giáo dục này nó càng lên mạnh thêm hoài, nếu
không đi t́m phương mà ngăn cản, th́ nó sẽ tràn
ngập khắp trong nước rồi cái xă hội
Việt Nam khi xưa tôn trọng đạo đức nên
được cứng cỏi, sẽ thành ra một xă
hội hỗn độn tham lam nên phải thấp hèn
yếu ớt” (Đoạn
t́nh, trang 29). Vấn đề này đă ám ảnh nhà
văn suốt đời cầm bút. V́ thế, trong bức
tranh muôn màu muôn vẻ ở tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh, chúng ta c̣n nhận ra hiện thực của
buổi đầu hội nhập văn hoá phương
Tây tại vùng đất phía Nam của Tổ quốc.
Sự hội nhập ấy đang phổ biến
khắp thành thị miền Nam, đồng thời
cũng lan toả đến tận
chốn làng quê. Có biết bao điều cần quan tâm,
cần duyệt xét lại, con người dễ dàng sa ngă, hư hỏng do dự “xui khiến” của “thị
dục” thấp hèn. Trong “Cư
kỉnh” cô Tuư là một thiếu nữ con nhà tử
tế nhưng v́ bị ảnh hưởng bởi tiểu
thuyết t́nh ái lăng mạn- sản phẩm của nền
văn hoá đương thời, đă tự huỷ
cuộc đời, phá vỡ tương lai.
Đầu
thế kỉ XX, ư thức phong kiến vẫn c̣n cơ
sở để tồn tại dù đă suy yếu, ư
thức tư sản chưa đủ sức để
kiềm toả ư thức phong kiến. Cho nên dù rất muốn, con người vẫn c̣n
e ngại, chưa mạnh dạn, dứt khoát để
đến với cái mới. T́nh trạng đắn đo, giằng co trong việc lựa
chọn một lối sống thích hợp là vấn
đề bức xúc của con người trong xă hội. Thông qua tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, chúng
ta có thể nhận ra điều đó. Các nhân
vật trong tiểu thuyết của ông đă không ít
người chạy theo lối sống tự do, tự do
yêu đương, tự do quyết định hôn nhân...
nhưng rồi phần lớn đều thấy rằng
trở về với quan niệm sống trước kia
của cha ông th́ mới t́m được hạnh phúc
trọn vẹn, tuy nhiên cần phải gạt bỏ
những mặt tiêu cực bảo thủ của quan
niệm cũ. Sống hoàn toàn theo mới hay khư khư với quan
niệm cũ cũng đều không tốt đẹp.
Đấy là vấn đề mà Hồ Biểu Chánh
cũng như con người của thời đại
luôn trăn trở. Với “Một chữ t́nh”, Hồ
Biểu Chánh đă chứng minh đây là một giai
đoạn mà con người nhận ra rằng: lối
sống mới có sức quyến rũ
thực lạ ḱ, tự do cá nhân rất phù hợp với
hoàn cảnh của xă hội trên con đường tư
sản hoá. Nhưng khi thực thi không phải
là chuyện dễ dàng. Tâm lí e dè, ngại
ngùng đă cản trở con người của thời
đại đến với cái mới. Thế th́ phải quay về với lối
sống cũ, dù có miễn cưỡng, vẫn cảm
thấy dường như dễ chịu hơn.
Quảng Giao và Bác Ái (Một
chữ t́nh) là hai thanh niên theo Tây
học, xuất thân từ các gia đ́nh phú nông ở nông
thôn. Sau khi học đă thành tài, Bác Ái có
trở về nông thôn sinh sống. Trong hai
người: một người tán thành t́nh yêu hôn nhân
tự do (Bác Ái), một người đề cao hôn nhân theo quan niệm cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy (Quảng Giao). Bác Ái đă sống theo quan niệm ḿnh. Nhiều
lần, qua thực tế chàng thấy quan niệm ấy là
đúng. Chàng c̣n được sự ủng hộ
của Xuân Hoa, cô bạn gái mà chàng đă thầm yêu say
đắm. Thế nhưng, kết cuộc
Quảng Giao không cần có t́nh yêu trước hôn nhân
vẫn xây đắp được hạnh phúc gia
đ́nh, dần dần t́nh yêu được nẩy nở
và lớn thêm măi. Ngược lại, Bác
Ái chỉ đeo đuổi măi một mối t́nh vô
vọng. Cuối cùng sống trong cô đơn,
buồn tủi, chán chường. Cách giải
quyết vấn đề như thế, một mặt
thể hiện quan niệm đạo đức của
Hồ Biểu Chánh. Mặt khác, phản ánh quá tŕnh
chuyển đổi trong lối sống của
người dân Nam
bộ, từ lối sống chịu ảnh hưởng
nặng nề của văn hoá phương Đông sang
lối sống theo phương Tây. Nông
thôn được xem là thành luỹ cuối cùng của Nho
giáo, do đó quá tŕnh đến với cái mới tại
đây có nhiều vật vă, trăn
trở hơn so với thành thị. Thanh Lăng có nhận xét:
“Tiểu thuyết của
Hồ Biểu Chánh là một bức truyền thần ghi
lại một bộ mặt của một thời.”
Thời đó, theo ông, là thời “Văn minh mới đang làm nát
dần cái cuộc sống êm đềm lặng lẽ
của đồng quê” [2, 240].
3. Tóm lại, đời sống
văn hoá ở nông thôn Nam
bộ hiện lên trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
có nhiều tính chất phức tạp. Đó
là một nền văn hoá được sản sinh
từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
lớn dần trong xă hội trên đường tư
sản hoá. Đồng thời nền
văn hoá ấy cũng chi phối mạnh mẽ nền
kinh tế, xă hội đương thời.
Đầu thế kỷ XX, không riêng ǵ Nam bộ, xă hội
Việt Nam có nhiều biến động dữ dội,
đặc biệt là ở lĩnh vực văn hoá.
Mọi giá trị truyền thống đều bị
duyệt xét lại, mọi cái mới c̣n đang bị hoài
nghi... Là một trí thức tân học nhưng
Hồ Biểu Chánh c̣n nặng ḷng với đạo
đức phong kiến. Do đó, khi đề cập
đến những vấn đề về văn hoá
của xă hội đương thời, Hồ Biểu
Chánh không chủ trương đả phá cái cũ, hô hào
mọi người đi theo cái mới như những nhà
văn của nhóm “Tự
lực văn đoàn” sau này. Theo ông,
cần phải dung hoà cũ mới. Có
thực hiện được điều này, hạnh phúc
sẽ đến với mọi người. Ông đă chứng minh bằng nhiều
trường hợp cụ thể trong các tác phẩm
của ḿnh, tiêu biểu nhất là tác phẩm “Chút
phận linh đinh”. Tuy c̣n mang tính chủ quan
nhưng tác phẩm của Hồ Biểu Chánh vẫn là
một bức tranh sống động, khắc sâu
những dấu ấn văn hoá của một thời, thời
ḱ đất nước đau đớn chuyển ḿnh
sang một giai đoạn mới, giữa cơn giông băo
của những ngày mất nước.
------------------
Tài liệu tham
khảo:
1. Nguyễn Khuê (1974), Chân dung Hồ Biểu Chánh,
Lửa thiêng, Sài G̣n.
2. Thanh Lăng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Tŕnh Bầy,
Sài G̣n.
3. Phong Lê (2005), Tiểu thuyết
mở đầu thế kỉ XXI trong tiếng tŕnh văn
học Việt Nam từ tháng 8- 1945, TC Văn học số
9.
4. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng
đất Nam
bộ, NXB TP Hồ Chí Minh.
5. Sơn Nam (1984), Đất Gia Định xưa, NXB TP Hồ Chí
Minh.
6. Nhiều tác giả (1988), Địa chí Văn hoá TP. Hồ
Chí Minh, tập 2, NXN Văn học TP. Hồ Chí Minh.
7. Phan Quang ( 1985),
Đồng bằng sông Cửu
Long, NXB Cửu Long và Tp HCM.
8. Trần Hữu Tá (1988), Một
vài cảm nghĩ nhân đọc lại tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh, in trong “Ngọn cỏ gió đùa”, NXB
Tổng hợp Tiền Giang.
9. Lê Ngọc Trà (2005), Lí luận và văn học, NXB
Trẻ.
Huỳnh
Thị Lan Phương
Bộ
môn Ngữ Văn, Khoa Sư phạm, Trường
Đại học Cần Thơ
---------------------------------------
Nguồn: tạp chí “Nghiên cứu văn học” số 7 (413), tháng 7 -
2006, trang 36 - 43.)